Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sự phục sinh của Giêsu”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Liên kết hỏng |
n clean up, replaced: phúc âm John → Phúc Âm Gioan (2) using AWB |
||
Dòng 27:
===Những ký thuật ngoài Cơ Đốc giáo===
[[Flavius Josephus]] (c.37 – c.100), một công dân La Mã gốc Do Thái, dưới sự bảo trợ của [[Flavians]], viết quyển ''Antiquitates Judaicae'' (Cổ sử Do Thái) khoảng năm 93. Trong tác phẩm này có một đoạn gọi là ''Testimonium Flavianum'' đề cập đến sự chết và phục sinh của Giê-su: “Khi Pilate, theo cáo buộc của những người lãnh đạo chúng ta, kết án [Giê-su] đóng đinh trên thập tự giá, những kẻ yêu thương người ấy không chịu từ bỏ người, vì người hiện ra cùng họ trong ngày thứ ba, sống lại, như các tiên tri đã báo trước, cùng với nhiều điều kỳ lạ liên quan đến người.”<ref>Josephus ''[http://www.ccel.org/j/josephus/works/ant-18.htm Antiquities 18.3.3]''</ref> Nhiều học giả cho rằng ''Testimonium Flavianum'' chỉ là phần thêm vào, song cũng có các học giả khác tin vào tính chính xác của văn bản.<ref>Daniel-Rops, ''Silence of Jesus' Contemporaries'' p. 21.</ref>
[[Tacitus]], một sử gia [[Đế quốc La Mã|La Mã]], nhắc đến sự hiện hữu của “Christus”, bị xử tử bởi [[Pontius Pilate]], nhưng không đề cập đến sự phục sinh.
==Khám phá ngôi mộ trống==
===Phụ nữ===
Cả bốn sách phúc âm đều ghi nhận sự kiện các phụ nữ là những người phát hiện nơi mai táng Chúa Giê-su chỉ còn là ngôi mộ trống. Theo Phúc âm Mark và Lu-ca, họ là những người đầu tiên loan báo tin Chúa phục sinh. Còn theo Phúc âm Matthew và John, những người đầu tiên nhìn thấy Chúa sau khi sống lại là các phụ nữ (trong
[[Tập tin:Disciples-visit-tomb.jpg|phải|nhỏ|200px|Hai môn đồ vào ngôi mộ trống,<br> tranh của William Hole]]
Trong các sách phúc âm, nhất là trong các sách [[phúc âm nhất lãm]], phụ nữ thủ giữ vai trò trung tâm như là những người kề cận bên Chúa Giê-su và chứng kiến sự chết, mai táng và khám phá ngôi mộ trống. Ba sách phúc âm nhất lãm nhiều lần thuật lại rằng những phụ nữ này đã chứng kiến tận mắt,<ref>Richard Bauckham, ''Jesus and the Eyewitnesses'' (Eerdmans Publishing Company: Cambridge, 2006), p. 48.</ref> và xem họ là những nhân chứng đáng tin.<ref>B. Gerhardsson, 'Mark and the Female Witnesses', in H. Behrens, D. Loding, and M. T. Roth, eds., ''Dumu-E2-Dub-Ba-A'' (A. W. Sjöberg FS; Occasional Papers of the Samuel Noah Kramer Fund 11; Philadelphia: The University Museum, 1989), pp. 219–220, 222–223; S. Byrskog, ''Story as History—History as Story'' (Wissenschaftliche Untersuchungen zum Neuen Testament Jerusalem Talmud 123; Tübingen: Mohr, 2000; remprinted Leiden: Brill, 2002), pp. 75–78; Richard Bauckham, ''Jesus and the Eyewitnesses'' (Eerdmans Publishing Company: Cambridge, 2006), p. 48.</ref>
Sự hiện diện của những người phụ nữ này trong tư cách là các nhân chứng khám phá ngôi mộ trống được xem là làm gia tăng tính khả tín của lời chứng, bởi vì, trong bối cảnh văn hóa thời ấy ([[Do Thái]] và [[Hy-La]]), sự nghi ngờ thường dành cho nam giới, nhất là những người quan trọng, hơn là “những phụ nữ đang đau buồn.”<ref>Ben Witherington III, ''What have they done with Jesus'' (San Francisco: Harper Collins, 2006), p. 50.</ref> [[C. H. Dodd]] xem câu chuyện phục sinh được ghi lại trong
===Nam giới===
Dòng 57:
===Kháng Cách===
Trong khi đó, quan điểm của [[Martin Luther]] về ý nghĩa của sự phục sinh của Chúa Giê-su, thường được gọi là Luận điểm Pháp chế, được chấp nhận bởi đa số tín hữu [[Tin Lành|Kháng Cách]] (''Protestant''), là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc [[Cải cách Kháng Cách]].
Giáo thuyết này nhấn mạnh rằng Thiên Chúa là Đấng Phán xét. Con người đã phạm tội, và vì vậy, theo sự công bình của Thiên Chúa, Ngài phải đoán phạt con người. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng yêu thương, nên giải pháp được chọn, thoả mãn cả đức công bình lẫn đức yêu thương của Thiên Chúa, là sai Con Ngài, tức là Chúa Giê-su, Đấng hoàn toàn vô tội, đến để gánh thay tội lỗi của thế gian trên vai Ngài, hầu cho hễ ai chấp nhận món quà hiến tế này của Chúa Giê-su đều được giải thoát khỏi xiềng xích của [[tội lỗi]].
|