Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngựa hoang Mông Cổ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n đã thêm Thể loại:Equus dùng HotCat
Disambiguated: đậuHọ Đậu using Dab solver
Dòng 1:
{{Bảng phân loại
{{Taxobox
| name = Ngựa hoang Mông Cổ
| status = EN
Dòng 7:
| image_caption = Ngựa hoang Mông Cổ tại [[Công viên Quốc gia Khustain Nuruu]]
| image_width = 250px
| regnum = [[Động vật|Animalia]]
| phylum = [[Động vật có dây sống|Chordata]]
| classis = [[Lớp Thú|Mammalia]]
| ordo = [[Bộ Guốc lẻ|Perissodactyla]]
| familia = [[Họ Ngựa|Equidae]]
| genus = ''[[EquusChi (genus)Ngựa|Equus]]''
| subgenus = ''E. (Equus)''
| range_map = Przewalski's Horse area.png
Dòng 24:
'''Ngựa hoang Mông Cổ''' hay còn gọi là '''ngựa hoang Przewalski''' là những con [[ngựa hoang]] phân bố trên những [[thảo nguyên]] ở [[Mông Cổ]]. Ngựa Przewalski được đặt tên theo nhà thám hiểm người Nga là [[Nikolai Mikhailovich Przewalski]], người đầu tiên phát hiện ra chúng vào khoảng năm [[1880]] tại khu vực sa mạc Gobi. Ngựa Przewalski được xếp vào nhóm có nguy cơ tuyệt chủng trong thiên nhiên. Từ năm [[1960]], loài ngựa quý hiếm này đã được liệt vào nhóm động vật có nguy cơ tuyệt chủng cao của [[Sách Đỏ]].
==Đặc điểm==
Một con ngựa hoang Mông Cổ trưởng thành nặng khoảng 250-300 [[kg]] hoặc từ 250–350&nbsp;kg, cao tầm 1m30 và dài 2[[m]].<ref name="mard.gov.vn">{{citeChú thích web|url=http://www.mard.gov.vn/pages/news_detail.aspx?NewsId=19993|title=Khôi phục giống ngựa hoang Przewalski|author=Linh Chi|date=2011-11-15|publisher=Cổng thông tin điện tử Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn|accessdate=2014-01-5}}<br>[http://www.zoopraha.cz/en/animals/we-help-them-to-survive/7678-return-of-the-przewalski-s-horse-to-mongolia Return of the Przewalski’s Horse to Mongolia] Prague Zoo {{en}}</ref> Loài ngựa màu [[nâu]] này có chiếc cổ ngắn một cách đặc trưng. Đặc biệt, ngựa Przewalski có 66 nhiễm sắc thể thay vì 64 như những loài ngựa khác.<ref name="Gaddy">{{citeChú bookthích sách|last=Gaddy|first=L. L. |title=Biodiversity: Przewalski's Horse, Edna's Trillium, the Giant Squid, and Over 1.5 Million Other Species|url=http://books.google.be/books?id=1Rqfio1iov8C&pg=PA6&dq=giant+squid+chromosomes&hl=en&sa=X&ei=sVNJUcm2KYWr0AWwhoGoAg&redir_esc=y#v=snippet&q=66%20chromosones&f=false|year=2005|page=6}}</ref> Thức ăn chủ yếu của loài ngựa [[thảo nguyên]] này là [[cỏ]] và một số loài thực vật đặc biệt. Vào mùa đông, khi cây cỏ không phát triển một số khu bảo tồn sẽ cho chúng ăn [[cỏ]] khô, [[Họ Đậu|đậu]] và [[ngô]].<ref name="KH">{{citeChú thích web|url=http://www.khoahoc.com.vn/khampha/the-gioi-dong-vat/47587_Vo-ngua-hoang-Przewalski-lai-vang-ron-thao-nguyen.aspx|title=Vó ngựa hoang Przewalski lại vang rộn thảo nguyên|date=2013-7-8|publisher=KhoaHoc.com.vn|accessdate=2014-01-5}}</ref> Ngựa hoang Mông Cổ có thể phát hiện nguy hiểm từ khoảng cách 300 mét và bỏ chạy ngay lập tức.
 
==Lịch sử==
Khoảng 20.000 năm trước, loài ngựa này sống tại [[Châu Âu]] nhưng biến đổi khí hậu khiến chúng rời môi trường sống sang [[Châu Á]].<ref name="mard.gov.vn"/>. Loài ngựa thảo nguyên Mông Cổ này từng có số lượng rất đông đúc, thậm chí chúng còn di cư ngược sang vùng Tây Âu để sinh sống. Sau nhiều thế kỷ chống chọi với sự biến đổi khắc nghiệt của khí hậu thì hiện nay ngựa Przewalski còn là nạn nhân của những kẻ săn bắn trộm, khiến số lượng giảm mạnh.
 
Theo các câu truyện cổ truyền miệng của [[Trung Quốc]], cách đây 2.000 năm, một phạm nhân bị lưu đày đã nhìn thấy loài ngựa hoang này ở khu vực gần thành [[Đôn Hoàng]], nơi giao với Con đường Tơ lụa. Người phạm nhân lập mưu bắt ngựa để dâng cho vua [[Hán Vũ Đế]] nhưng không thành. Thậm chí, nhà vua còn viết một bài thơ về loài ngựa lạ này. Châu Âu ghi nhận loài ngựa này vào cuối thể kỷ 19 khi nhà thám hiểm người Nga Nikolai Mikhailovich Przewalski (1839-1888) phát hiện ra chúng tại các núi giáp với [[sa mạc Gobi]].<ref name="mard.gov.vn"/>.
 
Khác với các loài ngựa "hoang" khác đã từng được [[thuần chủng]], loài ngựa hoang Mông Cổ chưa bao giờ được thuần chủng, và là loại ngựa hoang thật sự duy nhất còn tồn tại đến nay.<ref>{{citeChú bookthích sách|title=url=http://books.google.com/books?id=Bvg99Qq54nUC&pg=PA219&dq=only+true+wild+horse&hl=en&sa=X&ei=GaDJUqOVGJfsoASx_ID4Bw&ved=0CEoQ6AEwBQ#v=onepage&q=true%20wild&f=false|title=Przewalski's Horse: The History and Biology of an Endangered Species|pages=bìa sau|author=Lee Boyd, Katherine A. Houpt|year=1994|publisher=SUNY Press}}</ref>
 
==Nguy cơ==
Số ngựa Przewalski giảm mạnh sau năm [[1945]] và chỉ còn lại một nhóm nhỏ trong những năm tiếp theo.<ref name="vnExpress">{{citeChú thích web|url=http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/bao-dong-ve-so-phan-cua-ngua-hoang-2049892.html|title=Báo động về số phận của ngựa hoang|author=B.H.|date=2003-01-28|publisher=vnExpress - Tin nhanh Việt Nam|accessdate=2014-01-5}}</ref> Nguyên nhân của tình trạng này là săn bắn, hoạt động quân sự và áp lực sử dụng đất gia tăng. Ngoài ra, với số lượng ít ỏi ngựa Przewalski trong tự nhiên có thể dẫn đến [[giao phối cận huyết]]. Vào thế kỷ 20, loài ngựa này ở trên bờ vực tuyệt chủng do nạn săn bắt. Vào năm 1969, một nhà khoa học Mông Cổ đã nhìn thấy một con ngựa đực loại này ở sa mạc Gobi. Đây là lần cuối cùng con người nhìn thấy giống ngựa này trong tự nhiên. Ngựa hoang Przewalski đã bị cảnh báo tuyệt chủng từ 44 năm trước. Đến năm 2008 có khoảng 500 con ngựa thuộc loài này đang sống trong tự nhiên và 1.500 con sống trong các vườn thú và khu bảo tồn.
 
Ngày nay, ngựa Przewlski sống sót nhờ vào việc gây giống trong điều kiện nuôi nhốt. Hiện có khoảng 1.800 đến 2.000 con ngựa Przewalsi đang sinh sống tại vùng thảo nguyên Mông Cổ và các khu bảo tồn trên toàn thế giới. Hiện có tổng số con ngựa Przewalski sống trên toàn thế giới, trong đó có rất nhiều con sống tại vườn thú Praha.<ref name="mard.gov.vn"/>. Khoảng 1/4 số ngựa này được thả vào tự nhiên hồi cuối năm 2011 nhờ thành công của các biện pháp nhân giống thuần chủng.
 
Tại [[:mn:Хустайн байгалийн цогцолборт газар|Khu Bảo tồn Thiên nhiên Quốc gia Hồ Tây]] có 27 con ngựa Przewalski đang sinh sống chúng là kết quả của một quá trình dài nỗ lực nhân giống và bảo vệ của Khu bảo tồn kể từ năm 2010. Đặc biệt là việc một con ngựa hoang đầu tiên ra đời nhờ thụ tinh ống nghiệm. [[:cz:Zoologická zahrada Praha|Vườn thú Praha]], Cộng hòa Séc sẽ đưa thêm các con ngựa hoang Przewalski tới [[Mông Cổ]]. Đây là một nỗ lực nhằm đưa loài động vật này trở lại môi trường sống bản địa của chúng. 3 con ngựa cái và một con ngựa giống đã được đưa đến tỉnh [[Khomiin Tal]], Mông Cổ và thêm 4 con ngựa nữa sẽ được đưa tới Mông Cổ.
 
==Tham khảo==
<references />
==Liên kết ngoài==
 
{{wikispecies|Equus caballus przewalskii}}
* {{Eol|2923167}}
* {{ITIS|ID=926239}}
* {{IUCN
|ID = 41763
|author = [[:nl:Pieter Boddaert (bioloog)|Boddaert]]
|year = 1785
|title = Equus ferus
|IUCN_Year = 2011
}}
** {{IUCN
|ID = 7961
|author = [[Poliakov]]
|year = 1881
|title = ''Equus ferus'' ssp. ''przewalskii''
|IUCN_Year = 2011
}}
[[Thể loại:Ngựa]]
[[Thể loại:Equus|F]]