Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Châu Trinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Releya (thảo luận | đóng góp)
Đã lùi lại sửa đổi 15228385 của 123.27.75.132 (Thảo luận)
Dòng 54:
Khoa [[Canh Tý]] ([[1900]]), Phan Châu Trinh đỗ [[cử nhân (định hướng)|cử nhân]] thứ ba ở trường [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên]]. Năm sau ([[1901]]), triều đình mở ân khoa, ông đỗ [[phó bảng]], đồng khoa với [[tiến sĩ]] [[Ngô Đức Kế]] và phó bảng [[Nguyễn Sinh Sắc]]. Khoảng thời gian này, người anh cả mất nên ông về để tang, ở nhà dạy học đến năm [[Quý Mão]] ([[1903]]) thì được bổ làm Thừa biện [[Bộ Lễ]].
===Vào Nam, ra Bắc, ditme thang mat lonsang Nhật===
Là người có học vấn, lại tiếp xúc với nhiều người có tư tưởng canh tân và đọc được các tân thư<ref>Trong thời gian làm thừa biện ở [[Bộ Lễ]] ([[Huế]]), Phan Châu Trinh đã giao du với nhiều người có tư tưởng canh tân như [[Thân Trọng Huề]], [[Đào Nguyên Phổ]]..., được đọc ''Thiên hạ đại thế luận'' của [[Nguyễn Lộ Trạch]], các Tân thư giới thiệu tư tưởng duy tân của [[Khang Hữu Vi]], [[Lương Khải Siêu]]; tư tưởng dân quyền của [[Jean-Jacques Rousseau|Rousseau]], của [[Montesquieu]]; phong trào Duy tân ở [[Nhật Bản]] và cách mạng ở [[Pháp]], [[Hoa Kỳ|Mỹ]]... (theo nhóm Đinh Xuân Lâm, sách đã dẫn, tr. 147-148).</ref>, năm [[1905]], ông từ quan, rồi cùng với hai bạn học là [[Trần Quý Cáp]] và [[Huỳnh Thúc Kháng]] (cả hai đều mới đỗ [[tiến sĩ]] năm [[1904]]) làm một cuộc Nam du, với mục đích xem xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn đồng chí hướng.