Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Destiny's Child”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
GcnnAWB (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: (singer)| → (ca sĩ)|
n Liên kết hỏng
Dòng 34:
Sau những thành công ấy chính là những mâu thuẫn nội bộ của nhóm, Roberson và Luckett đã kiện quản lý của nhóm là [[Matthew Knowles]] chia lợi nhuận của nhóm không đều cho các thành viên. Sau đó, nhóm đã thay thế hai thành viên mới là Williams và [[Farrah Franklin]]. Nhưng vào năm 2000, Franklin cũng đã rời nhóm và chỉ còn lại ba thành viên tiếp tục. Nhóm đã phát hành album thứ ba của mình mang tên ''[[Survivor (album của Destiny's Child)|Survivor]]'', một trong những album thành công nhất của nhóm cùng các đĩa thành công trên thế giới như "[[Independent Women (bài hát)|Independent Women]]", "[[Survivor (bài hát của Destiny's Child)|Survivor]]" và "[[Bootylicious]]". Vào 2002, Destiny's Child tuyên bố rằng nhóm sẽ tạm thời tan rã để mỗi thành viên có thể phát triển sự nghiệp solo của mình. Sau đó, nhóm đã trở lại vào năm 2004 với album tiếp theo mang tên, ''[[Destiny Fulfilled]]''. Trong khoản thời gian thực hiện tour diễn thế giới của mình, nhóm đã tuyên bố rằng họ sẽ chính thức tan rã và sẽ đi theo sự nghiệp solo riêng của mình.
 
Tính đến nay nhóm đã phát hành bốn [[album phòng thu]] và bốn đĩa đơn quán quân tại Mỹ. Họ đã bán được tổng cộng 60 triệu đĩa trên toàn thế giới,<ref>"[http://books.google.com/books?id=DhUEAAAAMBAJ&lpg=PA44&dq=destiny%27s%20child%20billboard%202006&pg=PA30#v=onepage&q&f=false Billboard Books]". ''Billboard''. January 14, 2006.</ref><ref>[http://www.destinyschild.com/home.html Destiny's Child Big Surprise Farewell to Fans at Barcelona Concert]. ''Trang web chính thức của Destiny's Child'', 2004.</ref> và trở thành một trong những nhóm nhạc có số lượng đĩa bán ra cao nhất tại Hoa Kỳ.<ref>{{chú thích web |title=Top Selling Artists |url=http://riaa.com/goldandplatinum.php?content_selector=top-selling-artists|work=Recording Industry Association of America |accessdate=2011-07-16}}</ref> Tạp chí ''[[Billboard]]'' đã liệt kê ''Destiny's Child'' là một trong những bộ ba vĩ đại nhất mọi thời đại,<ref>{{chú thích web |title=Billboard Greatest Trios of All Time |url=http://www.billboard.com/bbcom/greatesttrios/2006/destinys_child.jsp |work=[[Billboard]] |accessdate=2008-05-13|archiveurl = http://web.archive.org/web/20080430084937/http://www.billboard.com/bbcom/greatesttrios/2006/destinys_child.jsp |archivedate = April 30, 2008|deadurl=yes}}</ref> và là nhóm nhạc thành công trên bảng Hot 100 với vị trí thứ 68 vào năm 2008.<ref>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/bbcom/specials/hot100/charts/top100-artists-80.shtml|title=The Billboard Hot 100 All-Time Top Artists|work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|accessdate=2008-11-17|archiveurl=https://archive.is/4TdU|archivedate=2012-05-25}}</ref> Năm 2005, giải thưởng [[World Music Awards]] đã trao tặng họ giải ''Nhóm nhạc nữ có số đĩa bán ra cao nhất mọi thời đại'' và đồng thời đứng vị trí số 9 trong danh sách những nghệ sĩ vĩ đại thập niên 2000–10 do ''[[Billboard]]'' bầu chọn.<ref>[http://www.billboard.com/#/charts-decade-end/artists-of-the-decade?year=2009&begin=1&order=position Best of the 2000s: Artists Of The Decade]. ''Billboard''.</ref>
 
== Sự nghiệp âm nhạc ==
Dòng 94:
Destiny's Child đã phát hành album tuyển tập mang tên ''[[Number 1's (album của Destiny's Child)|#1's]]'', vào ngày 25 tháng 10, 2005. Album này gồm những đĩa đơn đã giành vị trí thứ nhất của họ như "Independent Woman Part 1", "Say My Name" và "Bootylicious". Ba ca khúc mới được thu âm cũng đã kèm theo trong album này, gồm "[[Stand Up For Love]]", bài hát chính thức cho Ngày Quốc tế Trẻ em, "[[Check on It]]", một bài hát Knowles thu âm cho bộ phim ''[[The Pink Panther (phim năm 2006)|The Pink Panther]]''' và "Feel the Same Way I Do", bài hát cuối cùng nằm trong album ''#1's''.<ref name="Moss#1's">{{chú thích báo |last=Moss |first=Corey |title=Destiny's Child Look Back With #1's Before Going Their Separate Ways |url=http://www.mtv.com/news/articles/1510101/09212005/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date=2005-09-21 |accessdate=2008-05-13}}</ref> ''#1's'' đồng thời cũng được phát hành ở dạng [[DualDisc]], nhưng vẫn chung danh sách các ca khúc, kèm theo 7 video được chọn lọc và một đoạn phim quảng bá cho DVD của nhóm là ''[[Destiny's Child: Live in Atlanta]]''.<ref name="Moss#1's"/> DVD này được quay tại [[Atlanta]] khi nhóm thực hiện tour lưu diễn [[Destiny Fulfilled... And Lovin' It]]. DVD được phát hành ngày 28 tháng 3, 2006 và được chứng nhận Bạch kim bởi RIAA, với hơn 1 triệu bản đã tiêu thụ.<ref name="RIAA"/>
 
Tựa album này nói đúng ra phải gồm những đĩa đơn quán quân của nhóm. Trong khi những lời tựa của tuyển tập không đưa ra bất cứ thông tin nào liên quan đến sự trình diễn thương mại của các ca khúc trong album. Keith Caulfield của ''[[Billboard]]'' cho rằng cho rằng tựa của album này có lẽ chỉ là một "cách thức tiếp thị".<ref>{{chú thích web |last=Caulfield |first=Keith |title=Ask Billboard |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1001393289 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=2005-11-01 |accessdate=2008-05-13|archiveurl=https://archive.is/HxY0|archivedate=2012-07-22}}</ref> Ngược lại, nhà báo Chris Harris của [[MTV]] lại cho rằng album đã "xứng đáng với cái tên của nó";<ref name="Harris#1's">{{chú thích báo |last=Harris |first=Chris |title=Destiny's Child's #1's Hits — You Guessed It — #1 |url=http://www.mtv.com/news/articles/1512779/20051102/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date=2005-11-02 |accessdate=2008-05-13}}</ref> ''#1's'' lần đầu xuất hiện tại vị trí số 1 trên bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] với 113,000 bản đã được tiêu thụ trong tuần đầu tiên và đã được RIAA chứng nhận Bạch kim.<ref name="RIAA"/><ref>{{chú thích báo |last=Whitmire |first=Margo |title=Destiny's '#1's' Bows At The Top |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1001432508 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=2005-11-02 |accessdate=2008-05-13}}</ref> "Stand Up For Love" sau đó đã chính thức trở thành đĩa đơn cuối cùng của nhóm Destiny's Child.
 
===2006-12: Tan rã và những dự án gần đây===