Khác biệt giữa bản sửa đổi của “HMS Dreadnought (1906)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 101:
=== Động lực===
''Dreadnought'' là thiết giáp hạm đầu tiên sử dụng [[turbine hơi nước]] thay cho [[động cơ hơi nước]] chuyển động qua lại loại cũ kiểu [[động cơ ba buồng bành trướng đặt dọc |ba buồng bành trướng đặt dọc]]. Nó có hai cặp turbine [[Parsons Marine Steam Turbine Company|Parsons]] dẫn động trực tiếp, mỗi bộ được đặt trong một phòng động cơ riêng biệt và dẫn động hai trục chân vịt. Các trục phía ngoài được nối với turbine áp lực cao và phía sau, trong khi turbine áp lực thấp được nối với các trục phía trong. Một turbine chạy đường trường cũng được nối với trục chân vịt phía trong, cho dù chúng không được thường sử dụng và sau cùng được tháo rời.<ref>{{Harvnb|Burt|1986|p=31}}</ref> Các [[chân vịt]] ba cánh có đường kính {{convert|8|ft|10|in|m}}. Hơi nước được cung cấp cho turbine bởi 18 [[nồi hơi ống nước]] [[Babcock and Wilcox]], bố trí trong ba phòng nồi hơi, làm việc ở áp suất tối đa {{convert|250|psi|kPa|0|abbr=on|lk=on}}. Các turbine được thiết kế để tạo ra tổng công suất {{convert|23000|shp|lk=in}}, nhưng đạt đến gần {{convert|27018|shp|abbr=on}} khi chạy thử máy vào [[tháng 10]], [[1906]]. ''Dreadnought'' được thiết kế để có tốc độ {{convert|21|kn|lk=in|1}}, nhưng đã đạt đến {{convert|21,6|kn}} khi chạy thử máy.<ref>{{Harvnb|Roberts|1992|pp=15–16, 24, 26}}</ref>
 
''Dreadnought'' mang theo {{convert|2868|LT|t}} [[than đá|than]] cùng bổ sung thêm {{convert|1120|LT|t}} [[dầu mazut|dầu đốt]] để phun trên than nhằm làm tăng tốc độ cháy. Ở trữ lượng nhiên liệu tối đa, nó có thể đi được {{convert|6620|nmi|lk=in}} với tốc độ đường trường {{convert|10|kn}}.<ref>{{Harvnb|Roberts|1992|p=25}}</ref>
 
=== Vũ khí ===
[[Tập tin:HMSDreadnought gunsLOCBain17494.jpg|left|thumb|Tháp pháo nòng đôi 12-inch Mk X. Hai pháo hạng hai [[Hải pháo QF 12 pounder 18 cwt|QF 12-pounder]] để phòng thủ chống [[tàu phóng lôi]] được đặt trên nóc tháp pháo.]]
''Dreadnought'' được trang bị mười khẩu pháo [[Hải pháo BL 12 inch Mk X|BL 12-inch/45-cailbre Mark X]] trên năm [[tháp pháo]] nòng đôi. Ba tháp pháo được bố trí theo cách truyền thống trên trục dọc con tàu, gồm tháp pháo “A” phía trước, và hai tháp pháo “X” và “Y” phía sau vốn được phân cách bởi một tháp điều khiển ngư lôi đặt trên một cột ăn-ten ba chân ngắn. Hai tháp pháo cánh “P” và “Q” được bố trí hai bên mạn trái và mạn phải tương ứng ngang phần [[cấu trúc thượng tầng]] phía trước. ''Dreadnought'' có thể bắn toàn bộ qua mạn tám nòng pháo từ góc 60° phía trước cho đến 50° phía sau. Ngoài giới hạn này, nó có thể bắn sáu pháo ra phía sau và bốn pháo ra phía trước. Ở một góc 1° so với mạn tàu, nó có thể bắn sáu pháo ra phía trước hoặc phía sau, nhưng chớp lửa đầu nòng sẽ gây hư hại cho cấu trúc thượng tầng.<ref name=r8/>
 
Các khẩu pháo ban đầu có thể hạ tối đa đến góc −3° và nâng tối đa đến góc +13,5°, cho dù trong Thế Chiến I các tháp pháo được cải biến để có thể nâng cho đến góc +16°. Chúng bắn ra đạn pháo nặng {{convert|850|lb|kg|adj=on}} với [[lưu tốc đầu đạn]] {{convert|2725|ft/s|m/s|abbr=on}}; cho phép có tầm xa tối đa {{convert|16450|yd|m|abbr=on}} ở góc nâng +13,5° với [[đạn pháo]] xuyên thép (AP) 2chr. Ở góc nâng +16°, tầm xa tối đa được mở rộng lên {{convert|20435|yd|m|abbr=on}} sử dụng đạn pháo 4chr AP có kiểu dáng khí động tốt hơn nhưng hơi nặng hơn. Tốc độ bắn của các khẩu pháo này là một đến hai phát mỗi phút.<ref>{{cite web|url=http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_12-45_mk10.htm|title=Britain 12"/45 (30.5&nbsp;cm) Mark X|date=30 January 2009|accessdate=11 November 2009|publisher=navweaps.com}}</ref> Con tàu mang theo 80 quả đạn cho mỗi khẩu pháo.<ref name=b29/>
[[Tập tin:QF12pdr18cwtGunsXTurretHMSDreadnought.jpg|thumb|right|Pháo hạng hai [[Hải pháo QF 12 pounder 18 cwt|QF 12-pounder]] trên tháp pháo “X”, lưu ý vòm quan sát trên nóc tháp pháo.]]
Dàn pháo hạng hai bao gồm 27 khẩu [[Hải pháo QF 12 pounder 18 cwt|QF 12-pounder 18 cwt Mark I]]<ref group=Note>"Cwt" là viết tắt của [[:en:hundredweight]], 18 cwt liên quan đến trọng lượng của khẩu súng.</ref> 50-calibre {{convert|3|in|adj=on}} đặt trên cấu trúc thượng tầng và trên nóc các tháp pháo chính. Khẩu pháo có thể hạ tối đa đến góc −10° và nâng tối đa đến góc +20°. Chúng bắn ra đạn pháo nặng {{convert|12,5|lb|kg|adj=on}} với lưu tốc đầu đạn {{convert|2600|ft/s|m/s|abbr=on}}; cho phép có tầm xa tối đa {{convert|9300|yd|m|abbr=on}}. Tốc độ bắn là 15 phát mỗi phút.<ref name=nav>{{cite web|url=http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_3-50_mk1.htm|title=British 12-pdr [3"/50 (7.62 cm)] 18cwt QF Mark I|date=28 December 2008|accessdate=15 May 2010|publisher=navweaps.com}}</ref> Con tàu mang theo 300 quả đạn pháo cho mỗi khẩu pháo.<ref name=b29/>
 
Kế hoạch ban đầu dự định tháo dỡ tám khẩu pháo này trên sàn trước và sàn sau, giữ chúng trên gối đệm trên sàn tàu vào ban ngày để tránh không bị hư hại bởi chớp lửa đầu nòng của dàn pháo chính. Tuy nhiên, các thử nghiệm tác xạ vào [[tháng 12]], [[1906]] cho thấy công việc này khó khăn hơn mong đợi, và hai khẩu pháo bên mạn trái của sàn trước cùng pháo phía ngoài mạn phải trên sàn sau được chuyển đến nóc tháp pháo, mỗi tháp pháo hai khẩu. Các khẩu pháo còn lại trên sàn trước và khẩu pháo phía ngoài mạn trái trên sàn sau được tháo dỡ vào cuối năm [[1907]], làm giảm số lượng pháo kiểu này xuống còn 24 khẩu. Trong đợt tái trang bị vào [[tháng 4]]-[[tháng 5]], [[1915]], hai khẩu trên nóc tháp pháo “A” được bố trí lại về vị trí ban đầu bên mạn phải sàn sau. Một năm sau, hai khẩu phía cuối cấu trúc thượng tầng được tháo dỡ, giảm số lượng pháo xuống còn 22 khẩu. Hai khẩu ở sàn sau được cải biến đặt trên một bệ Mark IV*C góc cao cho nhiệm vụ [[chiến tranh phòng không|phòng không]] và hai khẩu ngang với [[tháp chỉ huy]] được tháo dỡ vào năm [[1917]].<ref name=r3>{{Harvnb|Roberts|1992|p=30}}</ref>
 
Một cặp pháo phòng không [[QF 6 pounder Hotchkiss]] trên bệ góc cao được bổ sung ở sàn sau vào năm [[1915]].<ref name=r3/> Chúng có thể hạ tối đa đến góc 8° và nâng tối đa đến 60°. Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo nặng {{convert|6|lb|kg|adj=on}} với lưu tốc đầu đạn {{convert|1765|ft/s|m/s|abbr=on}} và một tốc độ bắn 20 phát mỗi phút. Chúng có trần bắn tối đa {{convert|10000|ft|m|abbr=on}}, nhưng tầm bắn hiệu quả chỉ có {{convert|1200|yd}}.<ref>{{cite web|url=http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_6pounder_m1.htm|title=Britain 6-pdr / 8cwt (2.244"/40 (57 mm)) QF Marks I and II|date=16 May 2008|accessdate=11 November 2009|publisher=navweaps.com}}</ref> Chúng được thay thế bằng một cặp pháo [[QF 3-inch 20 cwt]] trên bệ góc cao Mark II vào năm [[1916]]. Kiểu vũ khí này có thể hạ tối đa đến 10° và nâng tối đa đến góc 90°. Chúng bắn ra đạn pháo nặng {{convert|12,5|lb|kg|adj=on}} với lưu tốc đầu đạn {{convert|2500|ft/s|m/s|abbr=on}} và một tốc độ bắn 12 đến 14 phát mỗi phút. Chúng có trần bắn hiệu quả {{convert|23500|ft|m|abbr=on}}.<ref>{{cite web|url=http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_3-45_mk1.htm|title=British 12-pdr (3"/45 (76.2&nbsp;cm)) 20cwt QF HA Marks I, II, III and IV|date=27 February 2007|accessdate=11 November 2009|publisher=navweaps.com}}</ref>
 
=== Chỗ ở cho thủy thủ đoàn ===
Theo thông lệ Hải quân Hoàng gia, sĩ quan thường được bố trí phía đuôi tàu, nhưng ''Dreadnought'' đã đảo ngược cách sắp xếp này, để sĩ quan ở gần vị trí hoạt động hơn. Điều này lại gây khó chịu cho sĩ quan vì giờ đây họ ngủ gần các phòng động cơ phụ ồn ào, trong khi các turbine mới phía đuôi tàu lại êm hơn so với các tàu hơi nước trước đây. Kiểu bố trí này kéo dài cho đến tận lớp thiết giáp hạm [[King George V (lớp thiết giáp hạm) (1911)|''King George V'']] vào năm [[1910]].<ref name=r8/>
 
== Chế tạo và chạy thử máy ==