Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đức tin Kitô giáo”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
+hình |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 7:
Trong Tân Ước có một từ chủ yếu thể hiện ý niệm về đức tin. Đó là động từ ''πιστευω'' ('''pisteuo'''), cùng nguồn gốc với danh từ ''πιστις'' ('''pi´stis'''). Động từ này có hai nghĩa cơ bản. Thứ nhất, nó có nghĩa là “tin vào điều ai đó nói, chấp nhận một lời tuyên bố (đặc biệt mang tính chất tôn giáo) là đúng.”<ref>Bultmann, Rudof. ''Theological Dictionary of the New Testament'', vol. 6, p. 203.</ref> Thứ hai, đức tin có nghĩa là “tin cậy người nào, khác với tin suông một điều gì.”<ref>Abbot-Smith, G. ''A Manual Lexicon of the Greek New Testament'' (Edinburg: T&T. Clark, 1937), p. 361-62.</ref> Nghĩa này luôn có thể nhận ra được qua việc sử dụng giới từ. Trong Phúc âm Mark 1:15, giới từ ''εν'' (en) được sử dụng, ''"…các ngươi hãy ăn năn và tin phúc âm."'' Giới từ ''εις'' (eis) được dùng trong Công vụ 10: 43, ''"Hết thảy các đấng tiên tri đều làm chứng nầy về Ngài rằng hễ ai tin Ngài thì được sự tha tội vì danh Ngài."'' [[Sứ đồ Giăng]] đề cập đến việc tin danh Chúa Giê-xu ''εις το ονομα'' - eis to onoma, ''"Nhưng hễ ai nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Thiên Chúa, là ban cho những kẻ tin danh Ngài."''<ref>Phúc âm Giăng 1: 12</ref> Cấu trúc này có ý nghĩa đặc biệt đối với người Do Thái vốn xem danh tánh của một người là hoàn toàn tương đương với người đó. Vì thế, tin vào danh Chúa Giê-xu là đặt lòng tin cá nhân vào chính Ngài.<ref>Ladd, ''Theology of the New Testament'', p. 271-72.</ref> Dựa vào những lý do trên, chúng ta kết luận rằng loại đức tin cần có cho sự [[cứu rỗi]] bao gồm cả “tin rằng” và “tin vào”, tức là chấp nhận một sự thật và tin cậy một người nào đó. Nhất thiết cả hai phải đi đôi với nhau.<ref>Erickson, Millard J., ''Thần học Cơ Đốc giáo'', tập II. Bản Việt ngữ của Viện Thần học Tin Lành Việt Nam. NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội (2006), p. 290-91</ref>
Luận giải về chức năng của đức tin trong mối tương quan với giao ước của Thiên Chúa, tác giả thư Hebrew trong [[Tân Ước]] viết, ''“Đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đang trông mong, là bằng cớ (hoặc xác tín) của những điều mình chẳng xem thấy”''.<ref>Hebrew 11:1</ref> ''Υποστασις'' ('''hy-po´sta-sis'''), được dịch là “sự bảo đảm”, thường xuất hiện trong các văn bản giao dịch cổ viết trên giấy ''papyrus'', chuyển tải ý tưởng cho rằng giao ước hoặc hợp đồng là biểu thị cho sự tin cậy lẫn nhau, bảo chứng cho
[[Hình:Abraham.jpg|nhỏ|250px|[[Phao-lô]] gọi [[Abraham]] là tổ phụ của những người có đức tin.<ref>''"Như Abraham tin Thiên Chúa, thì đã kể là công chính cho người, vậy anh em hãy nhận biết rằng những người có đức tin đều là con cháu thật của Abraham"'' - Galatians 3: 6-7</ref>]]
Hebrew 11: 6 diễn giải ý nghĩa và vai trò của đức tin trong sống đạo như sau: ''"Vả, không có đức tin thì không thể làm vui lòng (Thiên Chúa); vì người đến gần Thiên Chúa phải tin rằng có Thiên Chúa, và Ngài là Đấng ban thưởng cho người hết lòng tìm kiếm Ngài."''
|