Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Từ Hán-Việt”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 15:
Theo một số học giả, thời kỳ này '''[[phiên âm Hán-Việt]]''' là cách thức đọc tiếng Hán theo âm tiếng Hán thời [[nhà Đường]] qua đường sách vở, được những người Việt sử dụng chữ Hán đặt ra, Việt hóa ít nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt vào thời kỳ đó, hoặc là để làm phong phú nguồn từ vựng cho tiếng Việt cổ dùng trong dân gian, lúc đó người dân giả không được đi học còn dùng tiếng Việt cổ và chưa có chữ viết, hoặc là một số ít có thể dùng [[chữ Nôm]]. Theo Henri Maspéro, Benhard Kalgren, Torosu Mineyra, âm Hán-Việt đại diện cho [[phương ngữ]] [[Tràng An]] (thuộc kinh đô Hoa Lư) thế kỷ 9-10, vào thời kỳ cuối Đường. Đây là giai đoạn hình thành cách đọc Hán-Việt có hệ thống. Một số ý kiến khác lại cho rằng cách đọc Hán-Việt là dựa vào cách đọc theo [[phiên thiết]].
 
Từ vựng Hán-Việt đã góp phần làm phong phú vốn từ của tiếng Việt, phần thì bổ túc cho những từ ngữ không có trong có trong tiếng Việt, ngoài ra gia tăng ngữ nghĩa thêm tinh tế cho dù có sẵn những chữ thuần Việt song hành. Nhu cầu tiếngdùng từ Hán Việt càng tăng cao trong thế kỷ 19, khi người Việt dùng [[chữ Quốc ngữ]] mà không muốn mất đi vốn từ vựng chữ Hán đã dùng quen trước đó, mà cách dễ nhất là dùng chữ Quốc ngữ để phiên âm (hay là đọc trại đi) các từ được viết bằng chữ Hán. Ngày nay, khi muốn sử dụng một thuật ngữ mới, người ta đều có xu hướng dùng từ Hán-Việt như: "lập trình", "vi mạch", "cộng hòa", "Wiki hóa"...
 
==Bản chất từ Hán Việt==