Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Friedrich Karl của Phổ (1828–1885)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 78:
Sau khi cuộc [[Chiến tranh Pháp-Phổ|Chiến tranh Pháp-Đức]] ([[1870]] &ndash; [[1871]]) bùng nổ, Friedrich Karl được phong chức Tổng tư lệnh Tập đoàn quân số 2 của [[Đức]]. Vào ngày [[26 tháng 7]] năm 1870, ông rời kinh đô [[Berlin]] ra chỉ huy mặt trận.<ref name="menwhohavemdade"/> Cuộc chiến đã góp phần đến danh tiếng quân sự của ông.<ref>Joseph Thomas, ''The Universal Dictionary of Biography and Mythology: Clu-hys'', trang 964</ref> Friedrich Karl nhanh chóng tiến quân vào tuyến đường rút lui của [[Tập đoàn quân]] Rhine của [[Đế chế thứ hai|Pháp]] và hiện diện tích cực lần đầu tiên trên chiến trường trong [[trận Mars-la-Tour]] vào ngày [[16 tháng 8]]. Đây là một trong những trận đánh đẫm máu nhất của chiến dịch năm 1870. Tại đây, [[Quân đoàn]] III dưới quyền tướng [[Konstantin von Alvensleben]] đã giam chân được lực lượng áp đảo của Pháp, với các quân đoàn của [[François Certain Canrobert|Canrobert]], Decaen, [[Charles Auguste Frossard|Frossard]], [[Paul de Ladmirault|Ladmirault]] và lực lượng [[Cận vệ Đế chế (Napoléon III)|Cận vệ Đế chế]], cho đến khi Friedrich Karl tung một bộ phận của các quân đoàn VIII, IX và X vào trận địa. Quân Đức vẫn yếu thế về quân số, song họ đã đánh bật quân Pháp về phía [[Metz]] sau 12 tiếng đồng hồ giao tranh ác liệt. Tiếp theo đó, vị Thân vương tham gia chỉ huy [[trận Gravelotte|trận Gravelotte-St. Privat]] vào ngày [[18 tháng 8]] năm 1870.<ref name="menwhohavemdade"/> Đối lập với sự [[thất bại]] của Tập đoàn quân số 1 ở Gravelotte, tài nghệ [[chiến thuật]] của ông đã mang lại cho Tập đoàn quân số 2 thắng lợi tại St. Privat. <ref name="theodora"/>
 
Sau [[chiến thắng]] Gravelotte-St. Privat, các lực lượng thuộc Tập đoàn quân số 1 và 2 tiến hành [[Cuộc vây hãm Metz|bao vây]] Tập đoàn quân Rhine ở Metz. Mâu thuẫn cá nhân giữa vị thân vương và tướng [[Karl Friedrich von Steinmetz]], người chỉ huy Tập đoàn quân số 1, đã dẫn đến việc Steinmetz từ chức và Friedrich Karl trở thành Tổng chỉ huy các lực lượng vây hãm của Đức. Tại đây, Friedrich Karl với 12 vạn quân đã khóa chặt 18 vạn quân Pháp trong pháo đài Metz và đập tan các đợt phá vây ác liệt của Pháp, tiêu biểu nhất là [[trận Noisseville]] ([[31 tháng 8]] &ndash; [[1 tháng 9]]) và [[trận Bellevue]] ([[7 tháng 10]]). [[Sư đoàn]] của tướng [[Ferdinand von Kummer]] đã đóng vai trò then chốt trong việc bẻ gãy hai cuộc đột vây này. Cuối cùng, vào ngày [[27 tháng 10]] năm 1870, khoảng 173.000 quân Pháp &ndash; trong đó có ba [[Thống chế Pháp|thống chế]] và hơn 6.000 [[sĩ quan]] &ndash; phải đầu hàng quân của Friedrich Karl, khi ấy còn khoảng 11 vạn binh sĩ.<ref name="menwhohavemdade"/><refTheo name="houghtoncompanytr561">Houghtoncổ Mifflintục Companycủa vương triều, ''Themột Houghtonvương Mifflinthân Dictionarykhông ofđược Biography'',phong trang[[Nguyên 561</ref>Ngàysoái|Thống hômchế]] sau&ndash; khicấp Metzbậc thấtcao thủ,nhất Friedrichcủa Karlquân cùngđội vớiPhổ. Bản thân vua Wilhelm I trước đây chỉ là "[[TháiĐại tửtướng]] [[FriedrichBộ IIIbinh]] củaquyền Đức|Friedrichlãnh Thống chế", chứ không phải là Thống chế thực thụ. Tuy nhiên, ngày hôm sau khi Metz thất thủ, vua Wilhelm]] đượcI phá lệ phong quân hàm ''[[Nguyên soái|Thống chế]]'' &ndash;cho cấpcả bậcFriedrich caoKarl nhất củaThái quântử độiFriedrich PhổWilhelm. <ref name="houghtoncompanytr561">Houghton Mifflin Company, ''The Houghton Mifflin Dictionary of Biography'', trang 561</ref><ref name="menwhohavemdade"/> và sau

Sang năm 1871, ông xua quân [[Trận Orléans lần thứ hai|chiếm đoạt]] [[Orléans]], đập tan ''Binh đoàn Loire'' của [[Đệ tam Cộng hòa Pháp|Pháp]]. Vào ngày [[12 tháng 1]] năm 1871, ông lại giành chiến thắng trong [[trận Le Mans]],<ref name="houghtoncompanytr561"/><ref name="johnkeegentrang107"/> gây cho ''Binh đoàn Loire'' của Pháp thiệt hại rất lớn, trong đó có 12.000 [[tù binh]] không bị thương. Ngày [[14 tháng 1]], quân của Friedrich Karl chiếm được doanh trại Conlie nổi tiếng<ref name="menwhohavemdade"/>. Nhà [[lịch sử|sử học]] quân sự [[Hoa Kỳ]] [[Gordon A. Craig]] đánh giá vị vương tử là một nhà chỉ huy thận trọng, ngăn nắp nhưng thể hiện năng lực, sự quyết tâm và bền bỉ khi gặp khó khăn, Michael Howard nhìn nhận ông là một chiến sĩ nhà nghề nhưng cẩn trọng đến mức nhu nhược. <ref name="hansdelbrucktrang50">Hans Delbrück, ''Delbrück's Modern Military History'', trang 50</ref>
 
Ông được phong tặng ''Knight Grand Cross'' (''Đại Thập tự Hiệp sĩ'') danh dự của [[Huân chương Bath]] của [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] năm [[1878]].<ref name=it1>{{Citation