Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đất ngập nước”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: , → , (9), . → . (2), . < → .< (2) using AWB
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
== Chức năng của đất ngập nước ==
=== Cung cấp nước cho sinh hoạt===
Đất ngập nước <ref>Đất ngập nước Việt Nam - hệ thống phân loại,của phân viện điều tra quy hoạch rừng II NXB Nông Nghiệp vuất bản năm 2004 trang 41</ref> là những dòng [[sông]], [[suối]], các [[hồ chứa nước]] và các thủy vực nước ngọt chính là nguồn cung cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt của [[con người]]. nước ta là một nước có hệ thống sông ngòi rất [[phong phú]], nhưng tài nguyên nước mặt lại phân bố không đều trên phạm vi lãnh thổ và thường 70 - 80% lượng nước sông tập trung trong mùa lũ, còn 6-9 tháng màu hạn chỉ có 20 – 30%, làm cho tình trạng thiếu nước trở nên gay gắt hơn khi dân số ngày càng tăng và khi độ che phủ của rừng ngày càng giảm do tình trạng rừng đầu nguồn bị tàn phá. Chưa có công trình nghiên cứu nào ở [[Việt Nam]] tính đến [[giá trị]] [[kinh tế]] của đất ngập nước trong chức năng cung cấp [[nước sinh hoạt]] của người dân, nhưng nước đối với cuộc sống của con người là sự [[tồn tại]] và [[phát triển]], sẽ trở nên vô cùng quý giá, có thể không tính được thành tiền.
 
=== Đất ngập nước là những vùng sản xuất quan trọng ===
Hệ thống đất ngập nước tự nhiên sản xuất một loạt các thảm thực vật và các sản phẩm sinh thái khác có thể thu hoạch để sử dụng cá nhân và [[thương mại]]. Quan trọng nhất trong số này là cá có tất cả hoặc một phần của chu kỳ cuộc sống của nó xảy ra trong một hệ thống đất ngập nước. [[Cá]] tươi và nước mặn là nguồn protein chính của cho một tỷ người và chiếm 15% thêm hai tỷ khẩu phần ăn của người dân. Ngoài ra, cá tạo ra một ngành công nghiệp đánh bắt cá cung cấp 80% thu nhập và việc làm cho người dân ở các nước đang phát triển. Lương thực được tìm thấy trong hệ thống đất ngập nước là [[gạo]], hạt phổ biến được tiêu thụ với tỷ lệ 1/5 tổng số lượng calo toàn cầu. Ở [[Bangladesh]], [[Campuchia]] và [[Việt Nam]], nơi những cánh đồng lúa đang chiếm ưu thế về cảnh quan, tiêu thụ gạo đạt 70%.<ref> "The Ramsar Information Sheet on Wetlands of International Importance". September 18, 2009. Retrieved November 19, 2011.</ref>
Các sản phẩm có nguồn gốc từ rừng ngập mặn khác:
*Củi
Dòng 20:
 
=== Đất ngập nước là vùng sản xuất thủy sản ===
Đó là những vùng đất ngập nước bao gồm cả vùng đất ngập nước ngọt và đất ngập nước mặn sản xuất thủy sản cung cấp cho nhu cầu xã hội và xuất khẩu góp phần đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới. nước trong các sông hồ Việt Nam rất giàu các sinh vật phù du là nguồn thước ăn cho cá. Các khu rừng ngập nước là những nơi cung cấp giống, bãi đẻ, thức ăn cho các loài thủy sản.<ref>http://conganphuyen.vn/tin-da-phuong/766-khai-thac-hp-ly-dt-ngp-nuc-ven-bin-cn-gii-phap-phat-trin-bn-vng.html</ref> Để hoạt động khai thác thủy sản mang lại hiệu quả, trước hết phải dựa vào cộng đồng dân cư. Các địa phương cần khôi phục lại tổ quản lý đầm vịnh do nhân dân tự nguyện thành lập theo từng nhóm nghề cụ thể. Bên cạnh đó, không cho người dân đánh bắt liên xã, mà thiết lập địa giới ngư trường theo từng xã. Hoạt động khai thác phải được đặt dưới sự quản lý của chính quyền cơ sở nhằm kiểm soát được số lượng ngư cụ, cũng như số hộ khai thác.
 
=== Chắn sóng, chống xói lở và ổn định bờ biển ===
Nhờ có đai rừng ngập mặn ven biển nên đã làm giảm động lực của sóng và thủy triều và hạn chế sự xói lở bờ biển. có thể nói rằng không có công trình nào bảo vệ bờ biển chống xói lở tốt bằng đai rừng ngập mặn.
=== Lưu trữ chứa và Chống ngập===
Hệ thống đất ngập nước của vùng đồng bằng được hình thành từ các dòng sông lớn phía hạ lưu của họ đầu nguồn. Hệ thống sông đáng chú ý là kết quả lớn của vùng đồng bằng bao gồm [[sông Nile]], [[sông Niger]] đồng bằng nội địa, [lũ đồng bằng sông [[Zambezi]]], [[[sông Okavango]] nội địa đồng bằng], [đồng bằng [[sông Kafue]]] [vùng ngập hồ [[Bangweulu]]] (Châu Phi), [[sông Mississippi]] (Mỹ), [[sông Amazon]] ([[Nam Mỹ]]), [[sông Dương Tử]] ([[Trung Quốc]]), [[sông Danube]] ([[Trung Âu]]) và [[sông Murray-Darling]] ([[Australia]]). "Các vùng lũ của con sông lớn làm hồ chứa tự nhiên, cho phép nước dư thừa để lây lan ra trên một diện tích rộng, làm giảm độ sâu và tốc độ của nó. Vùng đất ngập nước gần thượng nguồn của sông suối có thể làm chậm dòng chảy nước mưa và mùa xuân tuyết tan để nó không chạy thẳng ra đất vào các dòng nước. Điều này có thể giúp ngăn ngừa đột ngột, gây thiệt hại lũ lụt ở hạ lưu.<ref> "Ramsar Convention Ecosystem Services Benefit Factsheets". Retrieved 2011-09-25.</ref>
 
=== Chứa giá trị về đa dạng sinh học ===
Dòng 33:
 
=== Nơi sinh sống cư trú lâu đời của cộng đồng dân cư ===
Đất ngập nước và các cộng đồng dân cư nông thôn đã gắn bó với nhau từ hàng ngàn năm. Cộng đồng dân cư Việt Nam đã sống với nhau thành những môi trường xã hội. Số lượng của những người sống và làm việc gần bờ biển dự kiến sẽ tăng vô cùng trong vòng 50 năm tới. Từ khoảng 200 triệu người hiện đang sống ở các vùng đất thấp ven biển, sự phát triển của các trung tâm đô thị ven biển dự kiến sẽ tăng dân số 5 lần trong vòng 50 năm.<ref> "United Nations Environment Programme (UNEP) - Home page". Retrieved 2011-12-11.</ref> Vương quốc Anh đã bắt đầu có các khái niệm về quản lý tổ chức lại ven biển. Kỹ thuật quản lý này cung cấp bảo vệ bờ biển qua việc phục hồi vùng đất ngập nước tự nhiên chứ không phải thông qua kỹ thuật được áp dụng.
 
=== Những quan cảnh đẹp để phát triển du lịch ===
Dòng 49:
 
=== Thủy văn ===
Thủy văn đất ngập nước liên quan đến tán không gian và thời gian phân, lưu lượng, và các thuộc tính hóa lý của bề mặt và nước ngầm trong các hồ chứa của nó. Dựa trên thủy văn, vùng đất ngập nước có thể được phân loại như ven sông (kết hợp với dòng), tích hồ (kết hợp với hồ nước và hồ chứa), và palustrine (cô lập). Nguồn của dòng chảy thủy văn vào vùng đất ngập nước là chủ yếu mưa, nước mặt, nước dưới đất. Nước chảy ra khỏi vùng đất ngập nước do bốc hơi, dòng chảy bề mặt, và thoát nước dưới bề mặt. Thủy động lực học (thông qua sự chuyển động của nước và từ một vùng đất ngập nước) ảnh hưởng đến [[hydroperiods]] (mực nước biến động theo thời gian) bằng cách kiểm soát cân bằng nước và nước lưu trữ trong một vùng đất ngập nước.<ref> Richardson, JL, Arndt, JL & Montgomery, JA 2001, ‘Hydrology of wetland and related soils’ in JL Richardson & MJ Vepraskas (eds), Wetland Soils, Lewis Publishers, Boca Raton</ref>
 
Đặc điểm cảnh quan kiểm soát thủy văn vùng đất ngập nước và [[hydrochemistry]]. O2 và CO2 nồng độ của nước phụ thuộc vào nhiệt độ và áp suất khí quyển. Hydrochemistry trong vùng đất ngập nước được xác định bằng [[độ pH]], [[độ mặn]], chất dinh dưỡng, dẫn, thành phần của đất, [[độ cứng]], và các nguồn nước. Hóa học nước của vùng đất ngập nước khác nhau trên cảnh quan và vùng khí hậu. Vùng đất ngập nước nói chung [[minerotrophic]] với ngoại lệ của đầm lầy.
Dòng 65:
 
=== Đất đai ===
Carbon là chất dinh dưỡng quan trọng trong vùng đất ngập nước. Hầu hết các chất dinh dưỡng, chẳng hạn như [[lưu huỳnh]], [[phốt pho]], [[cacbon]], và [[nitơ]] được tìm thấy trong đất của vùng đất ngập nước. [[Kỵ khí]] và [[hô hấp hiếu khí]] trong đất ảnh hưởng đến chu kỳ dinh dưỡng của carbon, hydro, oxy và nitơ, <ref> Ponnamperuma, FN 1972, ‘The chemistry of submerged soils’, Advances in Agronomy, vol. 24, pp. 29–96.</ref> và độ tan của phốt pho <ref> Moore Jr., PA & Reddy, KR 1994, ‘Role of Eh and pH on phosphorus geochemistry in sediments of Lake Okeechobee, Florida’ Journal of Environmental Quality, vol. 23, pp. 955–964.</ref> góp phần biến hóa trong nước. Vùng đất ngập nước với độ pH thấp và dẫn nước muối có thể phản ánh sự hiện diện của [[axit sunfat]] <ref>Minh LQ, Tuong TP, van Mensvoort MEF, Bouma J 1998 ‘Soil and water table management effects on aluminum dynamics in an acid sulphate soil in Vietnam’, Agriculture, Ecosystems & Environment, vol. 68, no. 3, pp. 255–262.</ref> và đất ngập nước với độ mặn trung bình có thể bị ảnh hưởng nặng nề bởi [[canxi]] hoặc [[magiê]]ư. quá trình Sinh địa hóa trong vùng đất ngập nước được xác định bằng đất có tiềm năng [[oxi hóa khử]] thấp.<ref>Schlesinger, WA 1997, Biogeochemistry: An analysis of global change, 2nd edn, Academic Press, San Diego</ref>
Có các nhóm đất có liên quan đến vùng đất ngập nước:
 
* Đất mặn phân bố chủ yếu ở rừng ngập mặn ven biển, địa hình thấp ven biển, cửa sông
Dòng 84:
 
==== Đất ngập nước mặn ====
Hệ thống đất ngập nước mặn chình là đới chuyển tiếp giữa đất liền và đại dương, bao gồm các dạng ngập nước nằm ở đới bờ biển và chịu ảnh hưởng của biển. Những vùng ven bờ biển, những đảo nhỏ và những vùng ven đảo lớn, chụi ảnh hưởng của thủy triều. Mực nước ngập sâu nhất khi thủy triều thấp nhất, trung bình qua nhiều năm, không vượt quá 6m, những vùng đất ven biển không chụi ngập bởi thủy triều, theo ngày theo tháng hoặc bị ngập khi thủy triều lên cao bất thường. Thuộc hệ thống này bao gồm những vách đá ngăn biển và nền biển có bờ đáy là bùn cát hoặc đá cuội có thực vật hoặc không có thực vật.
 
==== Đất ngập nước ngọt ====
Dòng 116:
* Giới hạn trên của vùng ven biển là mức thủy triều cao nhất bình quân hàng tháng trong năm
 
* Giới hạn dưới của thềm lục địa có đọ sâu mực nước khi thủy triều mức thấp nhất không vượt quá <ref>http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=83&NewsId=78416</ref> 6 m
 
* Vùng ven biển bao gồm các đảo nhỏ ven biển.
Dòng 125:
* Vùng cửa sông bao gồm cả tam giác châu đang hình thành do hoạt động tổng hợp của sông và biển, các dòng chảy phân nhánh, những diện tích lầy do điều kiện thoát nước, nhiều dạng tích tụ cát hình con trạch hoặc các giồng cát, cồn cát xếp thành các hình nan quạt.
 
* Cửa sông khá đa dạng về hình thái và cấu trúc. Dạng địa hình đặc trưng nhất của cửa sông là châu thổ hay còn gọi là [[tam giác châu]]. Châu thổ là dạng địa hình tích tụ của dòng sông tại nơi đó đổ vào bồn biển. trên bề mặt châu thổ, dòng sông thường phân nhánh phức tạp, tuy nhiên cũng có những trường hợp không phân nhánh, do đó người ta vẫn xem sự phân nhánh là một dấu hiệu hình thái chỉ thị để xác định phạm vi của châu thổ.
 
* Về mặt động lực có sự tương tác phức tạp giữa quá trình sông với các quá trình biển, như động lực sóng, động lực triều và các dòng sông, nước dồn nước rút. Khi dòng sông giàu phù sa, hoạt động triều và nước dồn, nước rút yếu thì quá trình bồi tụ thuận lợi. trong trường hợp dòng triều mạnh, cửa sông bị xâm thực và phù sa bị cuốn ra biển tham gia vào quá trình bồi tụ dọc bờ, hình thành loại cửa sông hình phễu. ngoài ra quá trình bồi tụ ở đây dược thúc đẩy mạnh mẽ do nước ngọt trộn với nước biển sinh ra quá trình ngưng keo mạnh đối với các chất phù sa lơ lửng trong nước sông.