Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tatmadaw”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Mathalala đã đổi Lực lượng Vũ trang Myanmar thành Tatmadaw
n clean up, replaced: , → , (44), . → . (30), ( → ( (3), ) → ) (2), : → : (4), ; → ; (3) using AWB
Dòng 45:
==Lịch sử==
===Thời kỳ trước thuộc địa===
Lực lượng vũ trang Hoàng gia là lực lượng vũ trang của chế độ quân chủ của Myanmar từ 9 đến thế kỷ thứ 19.Là quân đội của [[Triều Pagan|triều đại Pagan]],[[Triều Ava]] , [[Triều Toungoo]] và [[Triều Konbaung]] theo thời gian. Quân đội là một trong những lực lượng vũ trang chính của Đông Nam Á cho đến khi bị [[Vương quốc Anh]] đánh bại những năm 60 của thế kỷ 19.
 
Quân đội đã được tổ chức thành quân đội thường trực nhỏ khoảng vài ngàn, bảo vệ thủ đô và cung điện, và quân đội nghĩa vụ dựa vào thời chiến.Chế độ nghĩa vụ dựa vào hệ thống ahmudan, yêu cầu người đứng đầu các địa phương phải cung cấp hạn ngạch xác định nam giới đủ điều kiện theo dân số trong thời chiến. Quân đội thời chiến cũng bao gồm [[tượng binh]], [[kỵ binh]], [[pháo binh]] và [[hải quân]].
Dòng 58:
Vào đầu thế chiến thứ 1,Trung đoàn quân bản địa phục vụ trong Quân đội Ấn Độ chỉ có Trung đoàn bộ binh 70,và được chia thành 3 tiểu đoàn Karen,Kachin,Chin.Trong chiến tranh chính quyền Anh nới lỏng lệnh cấm,nâng cấp 1 tiểu đoàn trong Trung đoàn 70 lên thành 1 Đại đội súng trường 85 và 7 đại đội Cơ Vận tải.Ngoài ra còn 3 đại đội đặc công và mỏ đa phần là người Miến Điện và 1 đại đội trong [[Quân đoàn Tiên phong Hoàng gia]] đa phần là người Chin và Miến.Tất cả đều được hoạt động từ năm 1917 ở Miến Điện,Trung đoàn 70 đồn trú tại Ai Cập,Quân đoàn Tiên phong Hoàng gia đóng tại Pháp. 1 Đại đội phục vụ ở [[Lưỡng hà]] [[sông Tigris]].
 
Khi chiến tranh kết thúc,chính quyền Anh ngừng tuyển dụng người Miến,và 1 đại đội bị giải tán vào năm 1925.Đại đội cuối cùng bị giải tán là Đại đội đặc công và mỏ vào năm 1929.Anh sử dụng Ấn Độ thuộc địa và dân tộc thiểu số trong quân đội để đàn áp các cuộc biểu tình và nổi loạn,đặc biệt là cuộc nổi dậy của nông dân Saya San vào năm 1930-1931 .Các chính sách đã chia rẽ các dân tộc của Miến Điện trong thời gian dài.Vào ngày 1 tháng 4 năm 1937, Miến Điện trở thành thuộc địa riêng biệt, và Người Miến đã đủ điều kiện để nhập ngũ. Nhưng ít người Miến tham gia. Trước khi thế chiến II, quân đội Miến Điện thuộc Anh bao gồm Karen (27,8%), Chin (22,6%), Kachin (22,9%), và Miến 12,3%, không tính sĩ quan.
 
Vào tháng 12 năm 1942 một nhóm hoạt động độc lập thành lập [[Quân đội độc lập Miến Điện]] (BIA)với sự hỗ trợ của Nhật Bản.Quân đội do [[Aung San]] lãnh đạo đứng về phe của [[Đế quốc Nhật Bản]].Hàng ngàn thanh niên tham gia,ước tính có số lượng khoảng từ 15.000 đến 23.000. Đại đa số tân binh là người Miến, với ít người là dân tộc thiểu số. Nhiều người trong số các tân binh thiếu kỷ luật. Tại Myaungmya ở vùng đồng bằng Irrawaddy, một cuộc chiến tranh dân tộc đã nổ ra giữa BIA và Karen, cả hai bên đều chịu trách nhiệm về vụ thảm sát. BIA được thay thế bằng Quân đội Quốc phòng Miến Điện, được thành lập trên 26 tháng 8 năm 1942 với 3000 cựu binh BIA. Ngày 01 tháng 8 năm 1943 Quân đội trở thành Quân đội Quốc gia Miến Điện (BNA) với Ne Win là chỉ huy khi Miến Điện được độc lập trên danh nghĩa. Vào cuối năm 1944, có quân số khoảng 15.000 người.
Dòng 182:
 
=== Giai đoạn đầu (thời kỳ chiến tranh giành độc lập /Nội chiến) ===
Học thuyết đầu tiên được phát triển và hình thành từ những năm 1950 để đối phó với các mối đe dọa từ các cường quốc từ bên ngoài và một cuộc tấn công bằng [[chiến tranh quy ước]] .Nhận thấy hiểm hoạ đối với an ninh quốc gia là bên ngoài hơn là đe doạ nội bộ .Hiểm hoạ nội bộ đối với an ninh quốc gia được quản lý thông qua lực lượng hỗn hợp và đảng phái chính trị. [[Trung tá]] Maung Maung phác thảo học thuyết quốc phòng dựa trên khái niệm cuộc chiến tranh với vũ khí thông thường, với sư đoàn bộ binh lớn, lữ đoàn thiết giáp, xe tăng và cơ giới hoá với sự huy động quần chúng cho nỗ lực tham chiến là yếu tố quan trọng của học thuyết. Mục tiêu là ngăn chặn các của xâm nhập vào biên giới ít nhất ba tháng, trong khi chờ lực lượng quốc tế tới , giống với hành động bằng can thiệp bằng lực lượng quốc tế của [[Liên Hiệp Quốc]] trong [[chiến tranh Triều Tiên]]. Tuy nhiên, chiến lược thông thường theo khái niệm này của chiến tranh toàn diện bị suy yếu do thiếu sự chỉ huy và hệ thống kiểm soát, hệ thống hỗ trợ hậu cần chưa thích hợp, cơ sở kinh tế và tổ chức dân quân tự vệ còn yếu kém.
 
Vào đầu 1950, trong khi Tatmadaw đã có thể tái khẳng định quyền kiểm soát hầu hết các phần của đất nước, lính [[Quốc Dân Đảng Trung Quốc]] ( KMT ) dưới quyền Tướng Li Mai , được hỗ trợ từ [[Hoa Kỳ]], xâm lược Miến Điện và sử dụng biên giới của đất nước như bàn đạp để tấn công chống lại [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]], do đó trở thành mối đe dọa từ bên ngoài đối với an ninh quốc gia và chủ quyền của Miến Điện. Học thuyết thời kỳ đầu đã được kiểm tra lần đầu tiên trong chiến dịch " Naga Naing " vào tháng 2 năm 1953 chống lại sự xâm lược của lực lượng KMT. Học thuyết không tính tới hậu cần và chính trị của KMT được Hoa Kỳ hỗ trợ vì vậy Tatmadaw đã dẫn tới sự thất bại .Sau đó lãnh đạo Tatmadaw cho rằng giới truyền thông quá mức là một phần cho sự thất bại của chiến dịch "Naga Naing"
 
=== Giai đoạn thứ 2 (thời kỳ chống KMT xâm nhập /Đảng cương lĩnh xã hội chủ nghĩa Miến Điện (BSPP)) ===
Mặc dù thất bị Tatmadaw tiếp tục sử dụng học thuyết đến năm 1960 .Học thuyết liên tục sửa đổi thông qua sự xâm nhập của KMT và đạt được thành công chống KMT trong giữa và cuối những năm 1950 .Tuy nhiên ,học thuyết và chiến lược không còn phù hợp đến cuối những năm 50 khi phiến quân và quân KMT thay đổi chiến lược và chiến thuật bằng cách tấn công du kích .Hội nghị hằng năm sĩ quan Tatmadaw ( COs) năm 1958 ,Đại tá Kyi Win đệ trình lên một học thuyết mới .Dựa theo báo cáo của Kyi Win ,Tatmadaw phát triển và hình thành một học thuyết mới phù hợp hơn trong cuộc chiến chống quân nổi loạn .
 
Học thuyết thứ 2 là để đàn áp quân nổi dậy và sử dụng chiến tranh nhân dân ,nhận thức mối đe dọa đến từ bên ngoài .Trong giai đoạn này,quan hệ bên ngoài về các vấn đề trong nội bộ và sự đe dọa trực tiếp đã được giảm thiểu bằng chính sách đối ngoại cô lập .Đó là tầm nhìn chung của các sĩ quan chỉ huy khi tình trạng nổi loạn chấm dứt, sự can thiệp nước ngoài sẽ xảy ra, do đó chống nổi dậy trở thành cốt lõi của học thuyết và chiến lược quân sự mới .Bắt đầu vào năm 1961, Ban Hội đồng quá trình huấn luyện quân sự phụ trách nghiên cứu cho hoạch định quốc phòng, học thuyết quân sự và chiến lược cho cả đe doạ nội bộ bên trong lẫn bên ngoài. Điều này bao gồm các ý kiến về tình hình chính trị của quốc tế và trong nước , nghiên cứu về sự xảy ra các cuộc xung đột, tập hợp các thông tin lập kế hoạch chiến lược và định rõ đường cuộc xâm lược của ngoại bang. Vào năm 1962, như một phần của việc hoạch định học thuyết quân sự mới, nguyên tắc chiến tranh chống du kích được tóm lược và chống nổi dậy - các khoá huấn luyện được chuyển giao kế hoạch tại các trường đào tạo.  Học thuyết mới sắp xếp ba kẻ thù tiềm năng bao gồm quân nổi dậy trong nội bộ, kẻ thù lịch sử với sức mạnh tương đương( tức Thái Lan ), và quân xâm lược với vũ khí mạnh hơn. Trong việc đàn áp quân nổi loạn, Tatmadaw phải được huấn luyện để tiến hành cho sự thâm nhập từ tầm xa với chiến thuật liên tục [[tìm và diệt|tìm kiếm và tiêu diệt]]. Trinh sát, phục kích và ngày đêm tấn công và khả năng tấn công cùng với chiến thắng cả tâm trí là bộ phận quan trọng chiến tranh chống du kích .Để chiến thắng lịch sử với kẻ thù có sức mạnh tương đương , Tatmadaw áp dụng đánh nhau bằng chiến tranh với vũ khí thông thường và chiến lược chiến tranh toàn diện, không để mất lãnh thổ vào tay kẻ địch .Đối với kẻ thù có sức mạnh hơn và quân xâm lược nước ngoài, Tatmadaw áp dụng chiến tranh toàn diện với tất cả mọi người dân, và đặc biệt tập trung vào chiến lược du kích.
 
Để chuẩn bị cho học thuyết mới ,[[Chuẩn tướng]] Sanyu ,Phó tham mưu trưởng đã gửi một phái đoàn do [[Trung tá]] Thura Tun Tin dẫn đầu đến [[Thụy Sĩ]] ,[[Nam Tư]] ,[[Tiệp Khắc]] và [[Đông Đức]] vào tháng 7 năm 1964 để nghiên cứu cơ cấu tổ chức ,vũ khí ,đào tạo ,tổ chức lãnh thổ và chiến lược đối với [[dân quân|lực lượng dân quân]]. Một nhó nghiên cứu cũng được thành lập tại Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu để nghiên cứu khả năng phòng thủ và đội hình lực lượng dân quân của các nước láng giềng .
 
Học thuyết mới về chiến tranh nhân dân và chiến lược chống du kích của quân nổi dậy ,chiến lược chiến tranh du kích chống quân xâm lược nước ngoài ,được thiết kế thích hợp cho Miến Điện. Học thuyết bắt nguồn từ các quốc gia độc lập và chính sách đối ngoại chủ động ,chính sách quốc phòng toàn dân ,bản chất được nhìn nhận từ mối đe dọa địa lý tài nguyên, quy mô dân số so với các quốc gia láng giềng ,nền kinh tế ,lịch sử và chính trị .Học thuyết dựa vào "ba toàn bộ" :dân số ,thời gian ,không gian (du-thone-du) và "bốn sức mạnh" :nhân lực ,vật chất ,thời gian và tinh thần (Panama-lay-yat) .Học thuyết đã không phát triển khái niệm về khả năng phủ nhận hoặc phản công chiến lược .Gần như dựa hoàn toàn vào chiến tranh cường độ thấp ,như là chiến lược du kích để chống lại bất cứ hình thức xâm lược của ngoại bang .Chiến lược chống nổi dậy tổng thể bao gồm không những loại trừ người nổi loạn và cơ sở hỗ trợ của họ với chiến lược " bốn cắt " , mà còn xây dựng và chỉ định " vùng trắng " và " vùng đen " nữa.
 
Vào tháng Tư năm 1968, Tatmadaw giới thiệu chương trình đào tạo chiến tranh đặc biệt tại "Trung tâm chỉ huy đào tạo" tại các chỉ huy khác nhau trong khu vực .Chiến thuật chiến tranh chống du kích được giảng dạy tại các trường dạy lực lượng tác chiến và cơ sở đào tạo khác ,đặc biệt nhấn mạnh về phục kích và phản kích, chiến thuật vũ khí và chống nổi dậy, sáng kiến trận chiến cá nhân chiến thuật độc lập, chiến thuật biệt kích , và trinh sát. Hoạt động cấp tiểu đoàn cũng được chuyên dùng trong khu vực quân sự Tây Nam. Học thuyết quân sự mới được chính thức thông qua tại đại hội Đảng đầu tiên của BSPP vào năm 1971. BSPP đặt ra chỉ thị cho "hoàn toàn tiêu diệt quân nổi dậy là một trong những nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia "và kêu gọi" thanh lý quân nổi dậy thông qua sức mạnh của người lao động là mục tiêu trước mắt ". Học thuyết này đảm bảo vai trò của Tatmadaw ở trung tâm của hoạch định chính sách quốc gia.
 
Trong suốt thời kỳ BSPP, học thuyết chiến tranh tổng hợp nhân dân đã được áp dụng trong các hoạt động chống quân nổi dậy, trong thời gian này Miến Điện đã không gặp phải bất kỳ cuộc xâm lược trực tiếp nào từ nước ngoài . Năm 1985, Trung Tướng Saw Maung , Phó Tham mưu trưởng của Tatmadaw nhắc nhở chỉ huy của mình trong bài phát biểu của mình tại Cao đẳng Tư lệnh và Tham mưu :
{{cquote|''Tại Miến Điện với dân số gần 35 triệu người trong khi lực lượng vũ trang chỉ có khoảng 200 nghìn người .Xét về tỷ lệ chỉ chiếm khoảng 0,01 %. Chúng ta không thể bảo vệ đất nước với chỉ từng này quân... Vì vậy, những gì chúng ta phải làm khi có xâm lược là vận động nhân dân theo quy định của học thuyết "chiến tranh tổng hợp nhân dân" . Để bảo vệ đất nước khỏi những kẻ xâm lược, toàn dân phải tham gia hỗ trợ chiến tranh từ người phát lệnh chiến tranh.''}}
 
=== Giai đoạn thứ 3 (thời kỳ Hội đồng Khôi phục Trật tự và Pháp luật Liên bang''' /'''Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang''')''' ===
Giai đoạn thứ 3 phát triển học thuyết của lực lượng vũ trang Myanmar được đưa ra sau khi quân đội tiến hành đảo chính và thành lập Hội đồng Khôi phục Trật tự và Pháp luật Liên bang (SLORC) vào tháng 9 năm 1988 như một phần hiện đại hóa quân đội Myanmar .Sự phát triển phản ánh những vấn đề nhạy cảm về cuộc xâm lược trực tiếp của nước ngoài hoặc xâm lược do ủy nhiệm nhà nước trong những năm loạn lạc vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, ví dụ như : sự hiện diện trái phép của [[Tàu sân bay|Tàu sân bay Mỹ]] bên trong lãnh hải suốt năm 1988 trong thời gian biểu tình chính trị như là bằng chứng xâm phạm chủ quyền của Myanmar .Ngoài ra giới lãnh đạo của Tatmadaw cũng lo ngại rằng các cường quốc có thể lợi dụng quân phiến loạn để gây sức ép về chính trị và căng thẳng trong nước. Nhận thấy mối đe dọa mới này ,chưa kể đến sự cô lập về ngoại giao ,đứng đầu tatmadaw các nhà lãnh đạo xem xét khả năng phòng thủ và học thuyết của Tatmadaw .
 
Giai đoạn thứ 3 nguy cơ đe dọa từ các quốc gia bên ngoài ở mức độ thấp hơn ,vì vậy chiến lược quốc phòng toàn dân không còn phù hợp .Giới lãnh đạo quân sự mới tiêu diệt được 17 nhóm nổi dậy ,"trở lại khuôn khổ luật pháp" trong thập kỷ giảm đáng kể được mối đe dọa an ninh trong nước ,ít nhất trong ngắn hạn và trung hạn ,cho dù nhận thức về khả năng đe dọa trong nước, như tiếp tục [[Nhân quyền tại Myanmar|vi phạm nhân quyền]] , [[Tôn giáo tại Myanmar|đàn áp tôn giáo]] và [[Nội chiến tại Myanma|thanh trừng sắc tộc]] vẫn còn cao .
 
Theo chính sách ,vai trò của Tatmadaw được định nghĩa là một đội quân hiện đại ,mạnh mẽ và có khả năng tác chiến cao .Kể từ khi thành lập Tatmadaw đã khôi phục duy trì an ninh nội bộ và tiêu diệt các cuộc nổi dậy. Đó là nền tảng " đa phương diện " chính sách quốc phòng của Tatmadaw đã được trình bày học thuyết và chiến lược quân sự của nó có thể được diễn giải là phòng thủ theo chiều sâu.  Nó chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như là lịch sử, địa lý, văn hoá, nền kinh tế và ý thức các mối đe doạ. Tatmadaw đã phát triển chiến lược ' quốc phòng chủ động ' dựa trên chiến tranh du kích với khả năng quân sự thông thường hạn chế, được thiết kế để đối phó với các cuộc xung đột cường độ thấp từ bên ngoài và bên trong , đe doạ an ninh nhà nước. Chiến lược này, tiết lộ trong bài tập dịch vụ kết hợp, được dựa trên hệ thống phòng thủ tổng hợp toàn dân, nơi lực lượng vũ trang cung cấp phòng tuyến đầu tiên ,đào tạo và lãnh đạo trong của nhà nước trong vấn đề quốc phòng.  Nó được thiết kế để ngăn cản quân xâm lược tiềm năng bằng sự hiểu biết rằng thất bại của lực lượng thường trực Tatmadaw trong cuộc chiến tranh với vũ khí thông thường sẽ được theo sau bằng chiến tranh du kích kéo dài trong khu vực chiếm đóng do lực lượng dân quân và phân tán quân đội sẽ dẫn tới sự suy yếu lực lượng xâm lược, cả thể chất và tinh thần ,dẫn tới sự phản công quy mô . Nếu chiến lược thông thường không thành công thì Tatmadaw và lực lượng phụ của nó sẽ sử dụng khái niệm chiến lược của [[Mao Trạch Đông]] là " phòng thủ chiến lược ", " bế tắc chiến lược " và "tấn công chiến lược".
 
Trong suốt thập kỷ vừa qua, một loạt chương trình hiện đại hoá được tiến hành , Tatmadaw đã phát triển và đầu tư quyền kiểm soát tốt hơn, quản lý , Thông tin và hệ thống tình báo ;tình báo ngay lập tức ; hệ thống phòng không ghê gớm ; và hệ thống cảnh báo sớm cho "chiến lược kiếm chế" và học thuyết "quốc phòng toàn dân".
 
== Tổ chức chỉ huy và cấu trúc kiểm soát ==