Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Tùng Kha”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 18:
| mẹ =
| sinh = [[11 tháng 2]], 885<ref name=AS>[http://sinocal.sinica.edu.tw [[Viện Nghiên cứu Trung ương (Đài Loan)]] Chuyển hoán lịch Trung-Tây 2000 năm].</ref><ref name=CND46>''[[Cựu Ngũ Đại sử]]'', [[:zh:s:舊五代史/卷46|quyển 46]].</ref>
| nơi sinh = [[Thạch Gia Trang]]
| mất = [[11 tháng 1]], 937<ref name=AS/><ref name=TTTG280>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷280|quyển 280]].</ref>
| nơi mất = [[Lạc Dương]]
| ngày an táng = tháng 3 ÂL năm Kỉ Mão (937)
| nơi an táng =
}}
'''Lý Tòng Kha''' ({{zh|s=李从珂|t=李從珂|p=Lǐ Cóngkē}}) ([[11 tháng 2]] năm 885 – [[11 tháng 1]] năm 937), sử gọi là '''Hậu Đường Mạt Đế''' (後唐末帝) hay '''Hậu Đường Phế Đế''' (後唐廢帝) là hoàng đế cuối cùng của triều [[Hậu Đường]] thời [[Ngũ Đại Thập Quốc]]. Ông là dưỡng tử của [[Hậu Đường Minh Tông]] Lý Tự Nguyên, đoạt lấy hoàng vị sau khi lật đổ [[Hậu Đường Mẫn Đế]] Lý Tòng Hậu- nhi tử thân sinh của Minh Tông. Sau đó, ông lại bị
▲'''Lý Tòng Kha''' ({{zh|s=李从珂|t=李從珂|p=Lǐ Cóngkē}}) ([[11 tháng 2]] năm 885 – [[11 tháng 1]] năm 937), sử gọi là '''Hậu Đường Mạt Đế''' (後唐末帝) hay '''Hậu Đường Phế Đế''' (後唐廢帝) là hoàng đế cuối cùng của triều [[Hậu Đường]] thời [[Ngũ Đại Thập Quốc]]. Ông là dưỡng tử của [[Hậu Đường Minh Tông]] Lý Tự Nguyên, đoạt lấy hoàng vị sau khi lật đổ [[Hậu Đường Mẫn Đế]] Lý Tòng Hậu- nhi tử thân sinh của Minh Tông. Sau đó, ông lại bị tỉ phu [[Hậu Tấn Cao Tổ|Thạch Kính Đường]] lật đổ với sự hỗ trợ của [[nhà Liêu|Khiết Đan]]. Khi liên quân của Thạch Kính Đường và Khiết Đan đánh bại quân Hậu Đường, Lý Tòng Kha cùng hoàng thất và các triều thần trung thành tự thiêu tập thể tại kinh thành.
== Thân thế ==
Lý Tòng Kha sinh ngày 23 tháng 1 năm Ất Tị (11 tháng 2 năm 885, thời [[Đường Hy Tông]]) tại Bình Sơn<ref
Đến thời gian niên hiệu Cảnh Phúc (892-893) thời [[Đường Chiêu Tông]], khi [[Lý Tự Nguyên]]- đang là bộ tướng dưới quyền dưỡng phụ Hà Đông<ref
Khi còn nhỏ, Lý Tòng Kha được miêu tả là cẩn trọng và ít nói. Theo một tường thuật mà Lý Tự Nguyên nêu ra sau này, gia cảnh của Lý Tự Nguyên đương thời không giàu sang, và thường không đủ tiền sinh hoạt. Lý Tòng Kha giúp đỡ gia đình bằng cách thu lượm vôi và phân ngựa về để dùng và/hoặc bán.<ref name=CND46/> Ngụy thị mất vào năm sau khi bà bị bắt và được an táng tại Thái Nguyên- thủ phủ của Hà Đông.<ref name=NCND15/>
Hàng 37 ⟶ 36:
Sau khi triều Đường sụp đổ, lãnh địa của Lý Khắc Dụng trở thành nước [[Tấn (Ngũ Đại Thập Quốc)|Tấn]] và Lý Khắc Dụng cai trị với tước Tấn vương, sau khi Lý Khắc Dụng mất, nhi tử thân sinh là [[Lý Tồn Úc]] kế tập tước Tấn vương.<ref>''Tư trị thông giám'', [[:zh:s:資治通鑑/卷266|quyển 266]].</ref> Lý Tự Nguyên là một trong các tướng chính của Lý Tồn Úc, còn Lý Tòng Kha phụng sự dưới quyền dưỡng phụ. Theo ghi chép, Lý Tòng Kha là người mạnh mẽ và cao bảy xích lẻ, má vuông mình lớn, tài mạo hùng vĩ, dũng mãnh cương nghị, được Lý Tự Nguyên rất yêu mến. Lý Tòng Kha theo Lý Tự Nguyên chinh thảo, do nỗ lực chiến đấu nên có được danh tiếng, khiến Lý Tồn Úc (cùng tuổi với Lý Tòng Kha và là một chiến binh hung mãnh) từng nói "A Tam không chỉ cùng tuổi với ta, [tính] cảm chiến cũng giống nhau."<ref name="CND46"/><ref name=TTTG268>''Tư trị thông giám'', [[:zh:s:資治通鑑/卷268|quyển 268]].</ref> Lý Tòng Kha cùng phụ thân đem 3.000 kị binh làm tiền phong đi chiến đấu với Khiết Đan vào năm 917.<ref name=TTTG270>''Tư trị thông giám'', [[:zh:s:資治通鑑/卷270|quyển 270]].</ref>
Cuối năm 918, Lý Tồn Úc muỗn tiến hành một chiến dịch lớn để tiêu diệt kình địch [[Hậu Lương]] ở phía nam, đích thân dẫn quân nam hạ hướng đến kinh thành của Hậu Lương là Đại Lương. Đến tháng 1 DL năm 919, Lý Tồn Úc chạm trán với đại quân của Hậu Lương dưới quyền Bắc diện hành doanh chiêu thảo sứ [[Hà Côi]], tại Hồ Liễu Pha
== Thời Lý Tồn Úc làm hoàng đế Hậu Đường ==
Năm 922, Lý Tồn Úc xưng là hoàng đế của [[Hậu Đường]]. Tuy nhiên, đương thời Hậu Đường phải chịu áp lực quân sự đến từ Hậu Lương và Khiết Đan, cung ứng thực phẩm và sĩ khí của quân đội ở mức thấp. Vào lúc này, đại quân của Hậu Lương nằm dưới quyền chỉ huy của Thiên Bình<ref
Hoàng đế Hậu Lương là [[Chu Hữu Trinh]] sau đó quyết định cho [[Đoàn Ngưng]] thay thế Vương Ngạn Chương, Đoàn Ngưng vượt Hoàng Hà và tiến đến Thiền châu (澶州, nay thuộc [[An Dương (địa cấp thị)|An Dương]], Hà Nam)
#[[Đổng Chương]] tiến hướng đến Thái Nguyên.
#[[Hoắc Ngạn Uy]] tiến hướng đến Trấn châu<ref
#Vương Ngạn Chương và Trương Hán Kiệt (張漢傑) tiến hướng đến Vận châu.
#Đoàn Ngưng cùng với [[Vương Yến Cầu|Đỗ Yến Cầu]] sẽ đối đầu với Hậu Đường Trang Tông.
Tháng 9 ÂL, Vương Ngạn Chương dẫn binh vượt Vấn thủy, tương công Vận châu, Lý Tự Nguyên khiển Lý Tòng Kha đem kị binh nghịch chiến, đánh bại quân tiền phong của Hậu Lương, bắt được 300 tướng sĩ, giết được 200 người, khiến Vương Ngạn Chương phải triệt thoái về giữ Trung Đô<ref
Ngáy Ất Tị (7) tháng 3 năm Giáp Thân (13 tháng 4 năm 924), do Khiết Đan xâm phạm, Bắc Kinh (tức Thái Nguyên) tả sương mã quân chỉ huy sứ Lý Tòng Kha cùng Hoành Hải<ref
Năm 926, Hậu Đường
== Thời Lý Tự Nguyên trị vì ==
Tuy nhiên, Lý Tự Nguyên sau đó quyết định chống lại Lý Kế Ngập, cử Lý Tòng Kha đến Hộ Quốc<ref
Vào đầu thời gian trị vì của Hậu Đường Minh Tông Lý Tự Nguyên, An Trọng Hối trở thành xu mật sứ và là quan lại quyền lực nhất trong triều, đến mức cả các hoàng tử [[Lý Tòng Vinh]] và [[Lý Tòng Hậu]] phải cung kính. An Trọng Hối vẫn nhớ thù xưa, bắt đầu nói xấu Lý Tòng Kha với Lý Tự Nguyên, song Minh Tông ban đầu không nghe theo. Năm 930, An Trọng Hối giả mệnh lệnh của Minh Tông cho Hà Đông nha nội chỉ huy sứ Dương Ngạn Ôn (楊彥溫)- thuộc cấp của Lý Tòng Kha, lệnh phải đuổi Lý Tòng Kha. Dương Ngạn Ôn tìm được cơ hội khi Lý Tòng Kha ra ngoài thành Hà Trung (thủ phủ của Hộ Quốc) duyệt mã, Dương Ngạn Ôn cho đóng cổng thành, từ chối cho Lý Tòng Kha vào thành. Khi Lý Tòng Kha sai người đi hỏi nguyên nhân, Dương Ngạn Ôn đáp: "Ngạn Ôn không dám phụ ân, thụ mệnh lệnh của Xu mật viện, thỉnh Công nhập triều". Lý Tòng Kha quyết định tiến hướng về Lạc Dương song dừng chân tại Ngu Hương<ref
An Trọng Hối sau đó xúi giục các tể tướng [[Phùng Đạo]] và [[Triệu Phượng]] tấu với Trang Tông rằng Lý Tòng Kha không kiểm soát được trấn, cần phải bị trừng phạt. Tuy nhiên, Trang Tông từ chối ngay cả khi đích thân An Trọng Hối đề cập đến vấn đề này, song lệnh cho Lý Tòng Kha quay trở về phủ tại kinh thành. Sau khi Tác Tự Thông được bổ nhiệm làm Hộ Quốc tiết độ sứ, An Trọng Hối xúi giục người này vu cáo Lý Tòng Kha tự tạo vũ khí. Theo ghi chép, nhờ có ái phi của Trang Tông là [[Vương thục phi (Hậu Đường Minh Tông)|Vương đức phi]] bảo hộ nên Lý Tòng Kha mới được miễn. Các sĩ đại phu không dám qua lại với Lý Tòng Kha, ngoại trừ Lã Kỳ sống gần đó, mỗi khi tấu thỉnh Lý Tòng Kha thường bàn bạc với Lã Kỳ trước khi tiến hành.<ref name=TTTG277/> Lý Tòng Kha lo sợ An Trọng Hối đa phương hãm hại, chỉ đọc kinh Phật và cầu nguyện.<ref name=CND46/>
Năm 931, An Trọng Hối bị mất quyền lực, bị phế chức xu mật sứ và cuối cùng bị hành quyết. Sau khi An Trọng Hối bị loại bỏ, Trang Tông triệu kiến Lý Tòng Kha và khóc nói: "Nếu [ta] theo ý của Trọng Hối, ngươi sao có thể lại thấy ta!". Ngày Bính Dần (8) tháng 3 (29 tháng 3), Lý Tòng Kha được bổ nhiệm làm Tả vệ đại tướng quân. Đến ngày Ất Sửu (9) tháng 6 (26 tháng 7), Lý Tòng Kha được phục chức ''Đồng bình chương sự'', đảm nhiệm chức Tây Đô lưu thủ tại [[Trường An]].<ref name=TTTG277/> Ngày Canh Tý (20) tháng 7 năm Nhâm Thìn (24 tháng 8 năm 932), Lý Tòng Kha được chuyển sang giữ chức Phượng Tường<ref
Cũng trong năm 933, Minh Tông lâm trọng bệnh, hoàng tử [[Lý Tòng Vinh]] sợ rằng sẽ không thể kế vị nên cố dùng vũ lực đoạt quyền, song thất bại và bị giết. Sau khi Trang Tông mất, Lý Tòng Hậu đăng cơ kế vị vào ngày Quý Mão (1) tháng 12 ([[20 tháng 12]]).<ref name=TTTG278/>
== Thời Lý Tòng Hậu trị vì ==
Chính quyền của Lý Tòng Hậu do các Xu mật sứ [[Chu Hoằng Chiêu]] và [[Phùng Vân]] chi phối, họ lo sợ cả Lý Tòng Kha và Hà Đông tiết độ sứ Thạch Kính Đường (kết hôn với công chúa của Lý Tự Nguyên), do cả hai từng có thời gian dài theo Minh Tông chinh phạt lập công và có được sự ủng hộ lớn trong quân đội Hậu Đường. Ngờ vực của họ bắt nguồn từ việc khi Minh Tông lâm bệnh, Lý Tòng Kha nhiều lần khiển phu nhân đến kinh thành dò xét, khi Minh Tông mất ông cũng cáo bệnh không đến dự tang lễ. Họ bãi chức Khống hạc đô chỉ huy sứ của Lý Trọng Cát (李重吉)- trưởng tử của Lý Tòng Kha- và cử đi nhậm chức Bạc châu<ref
Tháng 2 năm Giáp Ngọ (934), Chu Hoằng Chiêu và Phùng Vân không muốn
Tuyên bố của Lý Tòng Kha ban đầu thu hút được rất ít sự ủng hộ từ các trấn khác, hầu hết sứ giả của Lý Tòng Kha bị bắt giữ. Ngày Tân Mão (21) tháng 2 (7 tháng 4), Lý Tòng Hậu bổ nhiệm Vương Tư Đồng làm Tây diện hành doanh mã bộ quân đô bộ thự, Dược Ngạn Trù làm phó, đem quân thảo phạt Lý Tòng Kha. Ngày Ất Mão (15) tháng 3 (1 tháng 5), các đạo binh của triều đình tập hợp dưới chân thành Phượng Tường và đánh thành, trong
{{quote|Ta từ lúc chưa đến hai mươi đã theo Tiên Đế [tức Minh Tông] bách chiến, vào sống ra chết. Ta thương tích đầy mình để lập nên xã tắc ngày nay. Các ngươi từng theo ta và thấy được sự việc. Nay triều đình tín nhiệm sàm thần, nghi kị cốt nhục, ta có tội gì mà phải chịu bị giết chứ?}}
Nhiều binh sĩ triều đình đã sẵn có ý ủng hộ Lý Tòng Kha,
Lý Tòng Kha sau đó đem quân tiến hướng đến Lạc Dương, Lý Tòng Hậu cho
Khi bá quan tại Lạc Dương đề nghị trao hoàng vị cho Lý Tòng Kha, Lý Tòng Kha ban đầu từ chối. Tuy nhiên, ngày Quý Dậu (4) tháng 4 (19 tháng 5), Tào thái hậu hạ lệnh phế Lý Tòng Hậu và giáng làm Ngạc vương. Ngày Giáp Tuất (5) tháng 4 (20 tháng 5), Tào thái hậu lệnh Lý Tòng Kha tức hoàng đế vị. Đến ngày Ất Hợi (6) tháng 4 (21 tháng 5), Lý Tòng Kha tức vị. Lý Tòng Kha sau đó khiển Vương Loan (王巒) đem rượu độc đến Vệ châu<ref
== Trị vì ==
Lý Tòng Kha phải đương đầu với thực tế là quốc khố không đủ để ban thưởng như ông từng hứa với các binh sĩ Phượng Tường và các binh sĩ triều đình quy phục ông. Nghe theo ý của học sĩ Lý Chuyên Mỹ (李專美), Lý Tòng Kha giảm khao thưởng theo tình hình quốc khố, khiến lòng quân oán giận.<ref name=TTTG279/>
Một vấn đề khác là Thạch Kính Dường, người này mặc dù là muội phu song là kình địch với ông một thời gian dài. Tào thái hậu và chính thất của Thạch Kính Đường là Tấn quốc công chúa đều thỉnh xin cho Thạch Kính Đường được phép trở về Hà Đông, song các thân tín của Lý Tòng Kha hầu hết đều chủ trương để Thạch Kính Đường ở lại Lạc Dương. Tuy nhiên, Xu mật sứ [[Hàn Chiêu Dận]] và Lý Chuyên Mỹ cho rằng giữ Thạch Kính Đường ở lại Lạc Dương sẽ khiến một muội phu khác là Tuyên Vũ (宣武, trị sở tại Đại Lương) tiết độ sứ [[Triệu Diên Thọ]] và phụ thân là Lô Long (盧龍, trị sở nay thuộc [[Bắc Kinh]]) tiết độ sứ [[Triệu Đức Quân]] cảm thấy lo sợ. Do Thạch Kính Đường khi đó có thể trạng yếu (sau một thời giam ốm đau kéo dài), Lý Tòng Kha cho rằng Thạch Kính Đường không còn là mối đe dọa sau này, và do đó cử Thạch Kính Đường quay trở lại Hà Đông.<ref name=TTTG279/>
Trong năm 935, Khiết Đan nhiều lần xâm nhập lãnh thổ Hậu Đường, trong lãnh thổ Hậu Đường lại xảy ra nhiều trận lụt và hạn hán, do vậy xảy ra nạn đói và tình trạng dân lưu tán. Thạch Kính Đường và Triệu Đức Quân nhiều lần yêu cầu tăng viện để chống Khiết Đan, người dân bị quá sức. Hơn nữa, trong một lần khi một sứ thần của triều đình đưa quân phục đến cho binh sĩ của Thạch Kính Đường, binh sĩ của Thạch Kính Đường nhiều lần hô vạn tuế. Thạch Kính Đường cho xử tử 36 binh sĩ đề xướng, song Lý Tòng Kha vẫn thêm ngờ vực Thạch Kính Đường, và do đó đến ngày Ất Tị (13) tháng 7 (14 tháng 8) thì bổ nhiệm Vũ Ninh<ref group="c">武寧, trị sở nay thuộc [[Từ Châu]], [[Giang Tô]]</ref> tiết độ sứ [[Trương Kính Đạt]] làm phó của Thạch Kính Đường, tức Bắc diện hành doanh phó tổng quản, nhằm phân tán quyền lực của Thạch Kính Đường.<ref name=TTTG279/>
Đến mùa xuân năm 936, căng thẳng giữa Lý Tòng Kha và Thạch Kính Đường trở nên rất sâu sắc, Thạch Kính Đường tận thu của cải và củng cố tại Hà Đông, mọi người đều cho rằng Thạch Kính Đường có ý muốn làm phản. Khi Tấn quốc trưởng công chúa đến Lạc Dương chúc thọ Lý Tòng Kha, sau khi chúc rượu và xin về Hà Đông, Lý Tòng Kha say và nói "Sao không ở lại thêm mà vội về. Muốn cùng Thạch lang phản chăng". Thạch Kính Đường biết tin thì càng lo sợ.<ref name=TTTG280/>
Các học sĩ [[Lý Tung]] và Lã Kỳ cho rằng giải pháp là liên minh với Khiết Đan. Họ đề nghị phóng thích một lượng nhất định các tướng sĩ Khiết Đan bị bắt trước đây và mỗi năm tặng cho Khiết Đan một lượng tiền nhất định. Tể tướng [[Trương Diên Lãng]] ủng hộ đề xuất này. Tuy nhiên, một học sĩ khác là Tiết Văn Ngộ (薛文遇) phản đối vì cho rằng Khiết Đan sẽ cầu hòa thân, điều mà Tiết Văn Ngộ cho là xỉ nhục. Lý Tòng Kha do đó ngưng lại đề xuất và giáng chức Lã Kỳ.<ref name=TTTG280/>
Ngày Tân Mão (3) tháng 5 năm Bính Thân (26 tháng 5 năm 936), theo đề xuất của Tiết Văn Ngộ, Lý Tòng Kha hạ chỉ chuyển Thạch Kính Đường từ Hà Đông đến Thiên Bình. Thạch Kính Đường lo sợ nên tiến hành nổi loạn. Ngày Ất Tị tháng 5 (9 tháng 6), Lý Tòng Kha bổ nhiệm Trương Kính Đạt kiêm Thái Nguyên tứ diện bài trần sứ, chỉ huy quân triều đình thảo phạt Thạch Kính Đường, Trương Kính Đạt nhanh chóng bao vây Thái Nguyên song không thể nhanh chóng chiếm được thành. Thạch Kính Đường cầu viện Hoàng đế Khiết Đan [[Da Luật Đức Quang]], hứa rằng nếu Da Luật Đức Quang đồng ý hỗ trợ mình làm hoàng đế thì sẽ nhượng [[Yên Vân thập lục châu]] (gòm toàn bộ trấn Lô Long và các châu bắc bộ của trấn Hà Đông) cho Khiết Đan. Da Luật Đức Quang chấp thuận, sau đó tiến đến Hà Đông, đánh bại quân Hậu Đường dưới quyền Trương Kính Đạt. Tàn quân của Trương Kính Đạt sau đó bị liên quân Khiết Đan/Hà Đông bao vây tại Tấn An trại gần Thái Nguyên.<ref name=TTTG280/>
Trong khi Tấn An trị bị bao vây, Hoàng đế Khiết Đan Da Luật Đức Quang công nhận Thạch Kính Đường là hoàng đế của [[Hậu Tấn]]. Hầu hết bá quan chủ trương Lý Tòng Kha thân chinh chống Thạch Kính Đường. Lý Tòng Kha cảm thấy bắt buộc phải làm vậy, song lại sợ giao chiến với Thạch Kính Đường do tài năng của người này và bản thân ông đang bị ốm, và thường uống rượu để đối phó. Ngày Nhâm Thân (17) tháng 11 nhuận (2 tháng 1 năm 937), Lý Tòng Kha dừng lại sau khi tiến đến Hà Dương ở ngay phía bắc Lạc Dương, rồi lệnh cho Triệu Đức Quân và Phạm Diên Quang đem quân đến giải vây cho Tấn An. Tuy nhiên, Triệu Đức Quân muốn thu được sự ủng hộ của Khiết Đan cho bản thân để trở thành hoàng đế, do đó, khi đến gần Tấn An, Triệu Đức Quân dừng lại và bí mật liên hệ với Da Luật Đức Quang. Da Luật Đức Quang cuối cùng vẫn quyết định ủng hộ Thạch Kính Đường, trong khi phó tướng của Trương Kính Đạt là [[Dương Quang Viễn]] giết chủ tướng và đầu hàng.<ref name=TTTG280/>
Liên quân Khiết Đan/Hậu Tấn chuyển sang giao chiến với quân của Triệu Đức Quân, quân của Triệu Đức Quân chưa đánh đã tan. Triệu Đức Quân và Triệu Diên Thọ đầu hàng Da Luật Đức Quang, quân Khiết Đan/Hậu Tấn tiến về Lạc Dương mà không gặp trở ngại. Lý Tòng Kha trở về Lạc Dương, và đến ngày Tân Tị (26) cùng tháng (11 tháng 1) thì cùng với Tào thái hậu, Lưu hoàng hậu, Ung vương Lý Trọng Mỹ cũng một số quan lại trung thành đem theo truyền quốc bảo lên Huyền Vũ lâu tự thiêu. Thạch Kính Đường sau đó tiến vào Lạc Dương và nắm quyền kiểm soát lãnh thổ cũ của Hậu Đường.<ref name=TTTG280/> Thạch Kính Đường thu thập tro cốt của ông, đến tháng 3 ÂL năm sau (tức năm Kỉ Mão) thì hạ chiếu táng ở gò mộ Huy lăng-lăng của Hậu Đường Trang Tông.<ref name=CND48>''Cựu Ngũ Dại sử'', [[:zh:s:舊五代史/卷48|quyển 48]].</ref>
== Ghi chú ==
{{tham khảo|group="c"}}
== Tham khảo ==
Hàng 87 ⟶ 105:
{{Vua thời Ngũ Đại Thập Quốc}}
{{DEFAULTSORT:
[[Thể loại:Sinh 885]]
[[Thể loại:Mất 937]]
|