Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mao Cừ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 13:
Tháng giêng ÂL năm Nghĩa Hi đầu tiên (405), tướng Tấn là bọn Lưu Nghị giành lại Giang Lăng, giải thoát cho An đế, triều đình làm chiếu khen ngợi công thần đất Thục, tiến Cừ làm Chinh tây tướng quân, gia Tán kỵ thường thị, Đô đốc Ích, Lương (梁), Tần, Lương (凉), Ninh 5 châu quân sự, hành Nghi Đô, Ninh Thục thái thú. Văn Xử Mậu làm Phụ quốc tướng quân, Tây di hiệu úy, Ba Tây, Tử Đồng 2 quận thái thú, Tây di hiệu úy Mao Cấn (em Cừ) làm Trì tiết, Giám Lương, Tần 2 châu quân sự, Chinh lỗ tướng quân, Lương (梁), Tần 2 châu thứ sử, Lược Dương, Vũ Đô thái thú. Thục Quận thái thú Mao Viện (em Cừ) làm Phụ quốc tướng quân, Ninh Châu thứ sử.
 
Tháng 3 ÂL cùng năm, Hoàn Chấn một lần nữa chiếm lại Giang Lăng, Cừ điều quân đi giúp quân Tấn, sai Cấn, Viện xuôi dòng [[Trường Giang]] tiến xuống, sai tham quân [[Tiếu Túng]] lãnh quân 2 quận Ba Tây, Tử Đồng tiến xuống sông Phù, hẹn bọn họ hội quân với ông ở Ba Quận. Người Thục vốn không bằng lòng tham chiến, đến lúc này nghe theo Tiếu Túng, nổi dậy ở cửa sông Ngũ Thành, quay lại tập kích đất Phù, giết Cấn. Trưởng sử Trịnh Thuần Chi của Cấn từ Thành Đô chạy đi báo tin cho Cừ. Khi ấy ông đang ở Lược Thành, cách Thành Đô 400 dặm, sai tham quân Vương Quỳnh đi dẹp phản quân, sắp giao chiến ở Quảng Hán. Bọn Bột Đạo lệnh Hà Lâm cùng thủ hạ của Cừ nghe theo lời chiêu dụ của Tiếu Túng, bèn giết cả Cừ và Viện, con cháu họ Mao ở đất Thục đều bị hại.
 
==Hậu sự==