Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vạn lý Trường chinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Diễn biến: clean up, replaced: uời → ười using AWB
clean up, replaced: → (21) using AWB
Dòng 1:
[[Tập tin:Chinese civil war map 03.jpg|phải|nhỏ|250px|Bản đồ tổng quan các tuyến đường của cuộc Vạn lý Trường chinh]]'''Vạn lý Trường chinh''' (''wanli changzheng''), tên đầy đủ là '''Nhị vạn ngũ thiên lý trường chinh'''<ref name="dictionary">[http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=2918aWQ9MzM1OSZncm91cGlkPSZraW5kPWV4YWN0JmtleXdvcmQ9ViVlMSViYSVhME4rTCVjMyU4ZCtUUiVjNiVhZiVlMSViYiU5Y05HK0NISU5I&page=1 "Vạn Lý Trường Chinh"] - Mục từ trong Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam</ref>, là một cuộc rút lui quân sự của Hồng Quân Công Nông Trung Hoa, với hành trình dài 25 ngàn dặm (12.000&nbsp;km)<ref name="Zhang">Zhang, Chunhou. Vaughan, C. Edwin. [2002] (2002). Mao Zedong as Poet and Revolutionary Leader: Social and Historical Perspectives. Lexington books. ISBN 0-7391-0406-3. pg 65.</ref>, bắt đầu từ [[Giang Tây]], tiến về phía tây tới [[Tây Tạng]] rồi đi ngược lên phía bắc, tới tận [[Diên An]] của tỉnh [[Thiểm Tây]]. Trong cuộc Vạn lý Trường chinh, kéo dài 370 ngày <ref name="Zhang"/> từ [[16 tháng 10]] năm 1934 đến ngày [[19 tháng 10]] năm [[1935]], Hồng quân luôn luôn bị quân của Tưởng Giới Thạch truy kích và phải đương đầu với núi cao, sông rộng, đói khát, bệnh tật và tuyết lạnh. Khi khởi đầu cuộc rút lui, Hồng quân có hơn 86 ngàn người <ref>Mao Zedong, ''On Tactics...'': [http://www.marxists.org/reference/archive/mao/works/1935/12_27.htm#n26 Note 26] retrieved 2007-02-17</ref>, nhưng khi kết thúc cuộc Vạn lý Trường chinh, số Hồng quân sống sót chỉ còn ít hơn 7 ngàn.<ref>{{chú thích sách | last = Yang |first = Benjamin | year = 1990 | title = From Revolution to Politics: Chinese Communists on the Long March | publisher = Westview Press | pages = 233 | isbn = 0-8133-7672-6}}</ref><ref>Theo wikipedia Tiếng Trung thì xuất phát cuộc Trường chinh là 300.000 người và kết thúc còn 20.500 người(?)</ref>
 
== Bối cảnh ==
Dòng 13:
 
[[Tập tin:Chiang-1.jpg|trái|nhỏ|150px|Đại thống chế Tưởng Giới Thạch, năm 1934 (thời kỳ bao vây Giang Tây)]]
Vào tháng 10 năm 1933, Tưởng Giới Thạch quyết định động viên toàn lực, tung ra cuộc tổng tấn công lần thứ năm để tiêu diệt Khu Xô viết Giang Tây. Cuộc bao vây tấn công này kéo dài trong nhiều tháng và gây khốn đốn cho những người cộng sản, 50 ngàn Hồng quân đã tử trận, đến mùa hè năm 1934, Xô viết Giang Tây chỉ còn khoảng phân nửa so với ban đầu. Đến tháng 9 năm 1934, Tưởng Giới Thạch đã tổ chức một Hội nghị quân sự tại [[Lư Sơn]] đúc kết kinh nghiệm 5 lần tiến hành bao vây khu Xô viết trung ương, vạch ra kế hoạch tiêu diệt dứt điểm toàn bộ ban lãnh đạo cộng sản tối cao. Kế hoạch này mang tên "Chiếc thùng sắt"
 
==Kế hoạch Chiếc thùng sắt==
Kế hoạch Chiếc thùng sắt được sự cố vấn của Hans von Seeckt, một viên tướng Đức, tập trung lực lượng lên đến 1,5 triệu quân, 270 máy bay và 200 khẩu pháo theo chiến lược “chia ra để bao vây và hợp lại để tấn công” tạo thành bức tường sắt bao vây lực lượng chủ đạo của quân cộng sản và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lấy mục tiêu trung tâm là Thụy Kim, trung tâm lãnh đạo của khu Xô viết, các đơn vị quân đội Quốc dân đảng sẽ tấn công hướng tâm nhằm hình thành một vòng vây kín cách Thụy Kim 150&nbsp;km. Sau đó, mỗi ngày sẽ tấn công giành thêm 5&nbsp;km và đào công sự kiên cố hình thành nên 30 hệ thống hàng rào dây thép gai cùng tuyến phong tỏa bằng hỏa lực mạnh. Mục đích đặt ra của kế hoạch "Chiếc thùng sắt" là cắt đứt các tuyến giao thông, phong tỏa tất cả các nguồn thông tin và hậu cần của Hồng quân cuối cùng dồn lực lượng chủ lực của quân cộng sản vào một khu vực hẹp rồi tổng tấn công. Mục tiêu của Kế hoạch là trong vòng 1 tháng tiêu diệt toàn bộ lực lượng cộng sản tại khu Xô viết Giang Tây. Tưởng Giới Thạch hy vọng rất nhiều vào kế hoạch này. Các loại tài liệu quân sự liên quan đến Kế hoạch “Chiếc thùng sắt” được chuẩn bị rất chi tiết và giữ tuyệt mật. Tuy nhiên, ngay sau khi Hội nghị quân sự kết thúc không lâu, Trung ương ĐCS TQ đã có được toàn bộ nội dung kế hoạch này.<ref>Người cung cấp những thông tin tình báo thuộc kế hoạch "Chiếc thùng sắt" cho phe Cộng sản là Mạc Hùng - Tư lệnh an ninh Nam Xương. Mạc Hùng (1891-1980) là người huyện Anh Đức thuộc tỉnh Quảng Đông. Từng tham gia cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Cương, chống Viên Thế Khải, và cuộc chiến tranh Bắc phạt. Sau khi chiến tranh Bắc phạt kết thúc, Mạc Hùng được Tưởng Giới Thạch phong hàm thiếu tướng nhưng không có thực quyền nên bất mãn,</ref>
 
==Hồng quân quyết định rút lui==
Dòng 22:
 
== Diễn biến ==
Ngày 10 tháng 10 năm 1934 bắt đầu cuộc trường chinh. Hệ thống lãnh đạo được tổ chức rất chặt chẽ. [[Otto Braun]], tư lệnh hồng quân, [[Bác Cổ]], tổng bí thư Đảng, và Chu Ân Lai, chủ tịch Ủy Ban Quân Sự và phụ trách các vấn đề hành chánh; (Mao Trạch Đông đang mất quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc<ref>Lúc này phe thân Nga đang lấn át tất cả những đảng viên không được huấn luyện tại Nga. Hai năm trước Mao Trạch Đông bị loại ra khỏi các chức vụ quân sự, chính trị và gần như đang bị giam lõng</ref>) tư lệnh phó [[Chu Đức]], giám đốc bộ chính trị Vương Gia Tường và tham mưu trưởng Lưu Bá Thừa. Hồng quân được phân làm hai lộ quân, lộ quân thứ nhất do [[Diệp Kiếm Anh]] lãnh đạo, lộ quân thứ hai do Lý Quế Nhân và Ðặng Phát chỉ huy.
[[Tập tin:Long march Mao.jpg|phải|nhỏ|Mao trong cuộc Vạn lý Trường chinh.]]
 
Tương quan lực lượng lúc bắt đầu cuộc trường chinh như sau: Hồng quân có 90.000 quân với 33,243 khẩu súng đủ loại, trong đó có 651 súng hạng nặng, 38 khẩu moọc-chê, hai triệu băng đạn, gần ba ngàn đạn moọc-chê và gần 80 ngàn lựu đạn. Tưởng Giới Thạch huy động 100 trung đoàn, gồm khoảng từ 300 tới 400 ngàn quân để truy đuổi Hồng quân.
 
Để giữ bí mật và tránh bị quân Quốc dân đảng truy kích đoàn người ngày nghỉ đêm đi, chọn những con đường mòn, và tránh những con lộ lớn. Lúc này quân Quốc dân đảng vẫn chưa khám phá được cuộc rút lui của Hồng quân, và chưa bắt đầu cuộc truy kích, Tưởng Giới Thạch vẫn yên trí Hồng quân sắp bị tận diệt đến nơi và không còn cách nào thoát được vòng vây của quân Quốc dân đảng.
 
Ngày [[21 tháng 10]] năm [[1934]], Hồng quân vượt qua vòng vây đầu tiên của Quốc quân tại vùng cực nam của [[Giang Tây]]. Tại đây họ gặp một sức kháng cự yếu ớt của một đơn vị quân Quốc dân đảng. Khi biết được cuộc di chuyển của Hồng quân, Thống chế Tưởng Giới Thạch ra lệnh truy kích. Ngày [[30 tháng 10]], họ Tưởng phong sứ quân Hồ Giản của tỉnh [[Hồ Nam]] làm Tổng tư lệnh lực lượng truy kích, và yêu cầu Hồ Giản kết hợp với Sử Du và Chu Hùng Viện hai tướng thiện chiến đem 15 sư đoàn bao vây và phục kích Hồng quân tại sông [[Sông Tương|Tương Giang]].
 
Trận đánh sông [[Sông Tương|Tương Giang]] kéo dài một tuần lễ, từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 3 tháng 12 là một thất bại to lớn cho Hồng quân Trung Quốc. Sư đoàn Thanh niên cộng sản, Sư đoàn 34, Trung đoàn 18 của đệ tam quân và phần lớn Đệ bát quân đoàn bị quân Quốc dân đảng tiêu diệt hoàn toàn. Sư đoàn 1 có 2800 binh sĩ lúc khởi đầu cuộc Trường Chinh, nhưng khi qua sông [[Sông Tương|Tương Giang]] chỉ còn lại 1400 người. Nguyên soái [[Lưu Bá Thừa]] nhận định: ''"Mặc dầu Hồng quân vượt qua được sông [[Sông Tương|Tương Giang]], nhưng phải trả một giá quá đắt. Hơn phân nửa hồng quân bị tiêu diệt"''<ref>Khi hồng quân tới được Tuân Nghĩa một tháng sau đó thì số 90 ngàn hồng quân lúc ban đầu chỉ còn lại 30 ngàn người</ref>. Rất nhiều dụng cụ như máy chiếu điện, súng lớn, máy phát điện phải ném xuống sông [[Sông Tương|Tương Giang]]. Trận [[Sông Tương|Tương Giang]] là một trận dữ dằn và đẫm máu nhất của Hồng quân trong suốt cuộc Vạn Lý Trường Chinh<ref>Tuy nhiên trong hồi ký, tư lệnh Hồng quân [[Otto Braun]] (Lý Đức) nói rất ít về trận đánh tại sông [[Sông Tương|Tương Giang]]. Lý Ðức cho rằng mặc dầu hồng quân bị thất trận nhưng cũng nhờ trận này mà Hồng quân mạnh hơn và khả năng chiến đấu tiến hơn trước. Lý Ðức đổ lỗi cho Chu Ân Lai vì Chu Ân Lai là người soạn thảo kế hoạch rút lui, và quyết định mang theo nhiều đồ đạc nặng, do đó làm chậm trễ bước tiến của hồng quân khiến quân Quôc dân đảng đuổi kịp.</ref>.
 
Sau thảm bại tại [[Sông Tương|Tương Giang]], tinh thần của quân lính rất ảm đạm,<ref>Trong cuốn Trung Quốc của Mao Trạch Đông kể rằng: Bác Cổ thường đùa nghịch với khẩu súng lục của mình, dí nó vào đầu và rồi giả vờ bóp cò.</ref> các chỉ huy hồng quân trở nên bất mãn, tức giận và mong muốn một sự thay đổi quyền lãnh đạo. Đúng lúc đó Mao Trạch Ðông trình bày một kế hoạch mới để cứu vãn 30 ngàn hồng quân khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn. Mao đề nghị:
*Loại bỏ kế hoạch tiến thẳng 250 dặm nữa về phía bắc, vượt qua Hồ Nam để tới căn cứ của tướng [[Hạ Long]]; chuyển hướng về căn cứ của [[Trương Quốc Đào]] tại phía bắc Tứ Xuyên. Căn cứ của [[Trương Quốc Đào]] rộng đến 40 ngàn kilômet vuông, có 3 triệu rưỡi dân và 80 ngàn quân, được trang bị và huấn luyện tốt. Căn cứ này xa hơn nhiều nhưng bảo đảm được sự sống còn của Hồng quân.
*Đốt bỏ những tài liệu văn khố nặng nề đang mang theo, chôn giấu những máy móc cồng kềnh và những vũ khí thặng dư.
Dòng 47:
Trong cuộc Vạn lý Trường chinh, Hồng quân đã vượt qua 18 rặng núi, 24 con sông lớn, đi qua 11 tỉnh của Trung Quốc, đã chiếm được 12 thành phố, đụng độ với quân đội của 10 sứ quân, và phải đương đầu với một triệu quân của Tưởng Giới Thạch. Họ cũng phải đi qua 6 khu vực của người thiểu số thù địch<ref name="vltc"/>.
 
Cuộc Vạn lý Trường chinh đã xác lập một cách chắc chắn quyền lãnh đạo của Mao Trạch Đông đối với Đảng Cộng sản Trung Hoa. Những người tham gia khác cũng đã trở thành những nhà lãnh đạo đảng nổi bật như [[Chu Đức]], [[Lâm Bưu]], [[Lưu Thiếu Kỳ]], [[Đổng Tất Vũ]], [[Diệp Kiếm Anh]], [[Lý Tiên Niệm]], [[Dương Thượng Côn]], [[Chu Ân Lai]] và [[Đặng Tiểu Bình]] hoặc các tướng lĩnh như: [[Hứa Thế Hữu]]...
 
== Nhận xét về Vạn lý Trường chinh ==
Dòng 63:
[[Tập tin:Thiếu tướng QĐNDVN Nguyễn Sơn.jpg|phải|nhỏ|180px|Lưỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn, người Việt Nam duy nhất tham gia Vạn lý trường chinh.]]
{{Xem thêm|Nguyễn Sơn}}
Lưỡng quốc Tướng quân [[Nguyễn Sơn]] là người [[Việt Nam]] duy nhất đã đi hết cuộc Vạn lý trường chinh. Ông phụ trách tiền trạm và giải quyết thương bệnh binh. Trên đường Vạn lý Trường chinh có lúc Nguyễn Sơn phải đi môt mình, ông từng lạc đường đến vùng dân tộc thiểu số, phải giả câm xin chăn dê để có cơm ăn, dưỡng sức tìm đường. Về tới Diên An, Nguyễn Sơn trở nên gầy gò như một bộ xương, vì thế không ai nhận ra ông. Trong thời gian Vạn lý Trường chinh, do liên tục đấu tranh với những điều sai trái, Lưỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn bị khai trừ Đảng Cộng sản 3 lần và bị vu cáo là "[[phản động]]", là gián điệp quốc tế, có lúc suýt bị tử hình.<ref>[http://doanthanhnien.ftu.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&catid=125:nhan-vt-s-kin&id=232:thiu-tng-nguyn-sn-lng-quc-tng-quan&Itemid=376 Thiếu tướng Nguyễn Sơn, lưỡng quốc tướng quân ]</ref>
 
Người Việt Nam thứ hai tham gia Vạn lý Trường chinh là Lý Ban (1912-1981) nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại thương<ref>Theo cuốn Bên thắng cuộc của nhà báo [[Huy Đức]] thì năm 1978, ông từng bị bắt vì bị nghi ngờ có những mối liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc.</ref>. Ông tên thật là Bùi Công Quan, sinh tại Bến Lức, Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn (nay là Long An), trong một gia đình đại điền chủ có hàng ngàn công đất “thẳng cánh cò bay”. Lý Ban tham gia Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, năm 1930 vào An Nam cộng sản Đảng. Năm 1932, ông sang Trung Quốc, năm 1934, vào học Trường Đảng Khu căn cứ Thụy Kim (tỉnh Giang Tây). Khi Tưởng Giới Thạch tấn công Khu căn cứ Thuỵ Kim, Lý Ban tham gia Vạn lý Trường chinh nhưng bị ốm nặng phải ở lại dọc đường. Khi khỏi bệnh, mất liên lạc, ông lội bộ hàng nghìn cây số, vượt vòng vây, trở về Quảng Đông.
 
== Những người phụ nữ trong cuộc Vạn lý Trường chinh ==
Có khoảng 2000 người phụ nữ tham gia cuộc Vạn lý Trường chinh, họ là vợ lãnh đạo cao cấp, cán bộ, y tá, liên lạc viên nhưng phần lớn nằm trong trung đoàn nữ thuộc Đệ tứ quân đoàn. Vợ lãnh đạo cao cấp có:
* Hạ Tử Trân (vợ Mao Trạch Đông): Xuất thân là một giáo viên, rồi trở thành thư ký riêng cho Mao Trạch Đông, sống chung với Mao từ năm 1928, kết hôn chính thức với Mao năm 1930.<ref>Sở dĩ Mao Trạch Đông và Hạ Tử Trân chưa chính thức kết hôn vì Dương Khai Tuệ, vợ cả của Mao, chưa bị Quốc dân đảng xử tử.</ref>. Trong cuộc Vạn lý Trường Chinh bà sinh hai lần, gửi con cho các nông dân địa phương nuôi, dự định sau này sẽ trở lại tìm kiếm, nhưng tất cả đều mất tích. Năm 1937, Hạ Tử Trân qua Mạc tư khoa chữa bệnh, tại đó Hạ Tử Trân sinh được một đứa con trai, đứa con thứ sáu cũng là đứa con cuối cùng của bà với Mao. Hạ Tử Trân bắt đầu mắc bệnh tâm thần khi đứa con chết vì bệnh sưng phổi. Mãi đến năm 1948, Hạ Tử Trân trở về Trung hoa, lúc này Mao đã có người vợ mới là Giang Thanh và bị cấm không được về Bắc Kinh theo lệnh Giang Thanh. Ngày 29 tháng 4 năm 1984, Hạ Tử Trân mất tại Thượng Hải
* Khang Khắc Thanh (vợ [[Chu Đức]]): nữ tiểu đoàn trưởng đầu tiên của Hồng quân, một chiến sĩ gan dạ, khỏe mạnh và cũng là một tay súng thiện xạ, đã cầm súng từ khi 15 tuổi. Khang Khắc Thanh kết hôn với Chu Đức năm 1929, tại Tỉnh Cương Sơn.<ref>Khi ấy Khang Khắc Thanh mới có 17 tuổi và Chu Ðức đã 43 tuổi rồi. Vợ trước của Chu Ðức cũng là một đảng viên cộng sản đã bị Quốc dân đảng xử tử năm 1928</ref> Khang Khắc Thanh cho rằng cuộc trường chinh chỉ là một chuyến đi dạo mát (?).
* Lưu Chung Tiên, (vợ của Bác Cổ): xuất thân từ giai cấp công nhân, gia nhập đảng cộng sản trước cuộc tàn sát tại Thượng Hải và được gửi sang Nga học tập bốn năm. Tại Nga, Lưu Chung Tiên gặp và kết hôn với Bác Cổ.
* Ðặng Dĩnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai, bà bị bệnh lao phổi ngay khi cuộc Trường chinh bắt đầu.
 
Dòng 80:
 
== Tài liệu tham khảo ==
* Mục từ "Vạn lý Trường chinh" trên [http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=1660aWQ9MzM1OSZncm91cGlkPSZraW5kPXN0YXJ0JmtleXdvcmQ9dg==&page=2 Bách khoa Toàn thư Việt Nam]
* Trung Quốc của Mao Trạch Đông, tác giả tiến sỹ Ralf Berhorst, người dịch Phan Ba, GEO EPOCHE xuất bản.
* [http://antg.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=67176 Những anh hùng thầm lặng của cuộc Vạn Lý Trường Chinh]