Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đào Nguyên Phổ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 4:
Đào Nguyên Phổ đỗ [[Cử nhân]] năm 1884, nhưng chưa dự [[thi Hội]] ngay, mà lại ra làm quan [[nhà Nguyễn]]. Ban đầu, Đào Nguyên Phổ được bổ chức Huấn đạo huyện [[Tam Nông, Phú Thọ|Tam Nông]] tỉnh [[Hưng Hóa (tỉnh)|Hưng Hóa]], rồi làm Tri huyện tại huyện [[Quế Võ|Võ Giàng]] tỉnh [[Bắc Ninh]]. Sau vì để mất trộm tiền thuế của huyện, bị bãi chức Tri huyện, ông phải trở về đi dạy học trên địa bàn tỉnh Nam Định cũ ([[Nam Định]] và Thái Bình). Trong thời gian này, ông giao du với các chí sĩ yêu nước thời đó.
Năm 1895, ông vào [[Huế]], học tại trường [[Quốc Tử Giám (Huế)|Quốc tử giám]]. Đến Năm 1898, sau 3 năm học tại kinh đô, ông dự thi Hội và đỗ Đình nguyên Hoàng giáp. Ngay sau đó, ông được bổ chức Hàn lâm thừa chỉ. Năm 1902, ông từ quan, ra [[Hà Nội]] làm nghề nhà báo, viết cho ''Đăng cổ tùng báo'', và tích cực truyền bá tư tưởng duy tân. Năm 1907, ông tham gia sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục, cùng với [[Lương Văn Can]], [[Nguyễn Quyền]],...
Sau khi Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, tiếp đến [[Hà Thành đầu độc|vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Thành]] bị thất bại, Đào Nguyên Phổ bị người [[Pháp]] truy lùng ráo riết. Nên ông đã phải tự sát vào năm 1908 để khỏi bị Pháp bắt, cũng để giữ danh tiết đồng thời tránh hệ lụy cho gia đình và bạn bè.