Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quần đảo Trường Sa”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Tranh chấp chủ quyền: Dựng 1963 nhưng đề năm 1956 |
|||
Dòng 256:
==Tranh chấp chủ quyền==
Từ những thập niên đầu của [[thế kỷ 20|thế kỉ 20]], thời kì yên bình của quần đảo Trường Sa đã chấm dứt. Hàng loạt quốc gia từ châu Á đến châu Âu như Việt Nam, Pháp, các nhà nước Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei và trong một số giai đoạn lịch sử là Anh và Nhật Bản đều tham gia vào cuộc tranh chấp, dù là ở các mức độ khác nhau.
[[Tập tin:Bia VNCH Truong Sa - Republic of Vietnam Spratly Islands Territorial Marker.JPG|250px|nhỏ|phải|Bia chủ quyền Trường Sa của [[Việt Nam Cộng hòa]] dựng 22 tháng 8 năm 1956, tại đảo Song Tử Tây]]▼
===Việt Nam===
Hàng 284 ⟶ 283:
Ngày [[14 tháng 3]] năm [[1933]], Pháp cho đội tàu gồm ''Malicieuse'', [[tàu pháo]] ''Arlete'' và hai [[Tàu nghiên cứu#Khảo sát thuỷ văn|tàu thuỷ văn]] ''Astrobale'' và ''de Lanessan'' từ [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] đến đảo Trường Sa và hàng loạt địa điểm khác như đá Chữ Thập, cụm rạn Luân Đôn, bãi san hô Tizard, bãi san hô Loại Ta, cụm rạn Thị Tứ và rạn Nguy Hiểm Phía Bắc.<ref name="sachtrang" /> Tại từng địa điểm đi qua, người Pháp đã tổ chức nghi lễ chiếm hữu các đảo chính thuộc nơi đó. Ngày 26 tháng 7, [[Bộ Ngoại giao Pháp]] ra thông báo về hành động trên, kèm theo danh sách liệt kê tên các đảo đã chiếm hữu cùng [[tọa độ]], bao gồm:
#
#
#
#
#
#
Từ ngày 24 tháng 7 đến ngày 25 tháng 9, Pháp lần lượt thông báo cho các quốc gia có thể có lợi ích tại Trường Sa biết về hành động của Pháp. Theo [[sách trắng|bạch thư]] của Việt Nam Cộng hòa thì ngoại trừ [[Nhật Bản]], tất cả các nước được thông báo đều không có lời phản đối Pháp; Trung Hoa Dân Quốc, Hà Lan (đang kiểm soát [[Indonesia]]) và [[Hoa Kỳ]] cũng đều giữ im lặng.<ref name="sachtrang" /><ref group="Ghi chú">Zou (2005) viết rằng sự kiện 1933 đã bị Trung Hoa Dân Quốc phản đối ({{harvnb|Zou|2005|p=49}})</ref> Ngày 21 tháng 12 năm 1933, thống đốc [[Nam Kỳ#Thời Pháp thuộc|Nam Kỳ]] [[Jean-Félix Krautheimer]] kí Nghị định số 4702-CP sáp nhập số đảo trên vào địa phận tỉnh [[Bà Rịa (tỉnh)|Bà Rịa]] thuộc [[Liên bang Đông Dương]].<ref>{{chú thích web |url=http://biengioilanhtho.gov.vn/vie/quandaotruongsathuoctinh-nd-ceb8b204.aspx |title=Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Bà Rịa (1933) |publisher=Trang thông tin điện tử về Biên giới lãnh thổ |date= |accessdate=2012/8/15}} Lưu trữ bởi WebCite® vào ngày 13 tháng 11 năm 2012 tại [http://www.webcitation.org/6C8vXdQnH đây].</ref> Sáu năm sau Thứ trưởng Ngoại giao của Anh là Richard Butler cũng tuyên bố nhìn nhận chủ quyền của Pháp trên vùng Trường Sa.<ref>''White Paper on the Hoàng Sa (Paracel) and Trường Sa (Spratly) Islands''. Sài Gòn: Ministry of Foreign Affairs, 1975. Trang 71.</ref>
Thời [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], [[
Sau khi người Pháp rời khỏi Việt Nam theo quy định của [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève 1954]], quyền kiểm soát các đảo thuộc về quân đội Quốc gia Việt Nam và kế tiếp là [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|quân đội Việt Nam Cộng hòa]]. Sau sự kiện Tomás Cloma, ngày 1 tháng 6 năm 1956,
▲[[Tập tin:Bia VNCH Truong Sa - Republic of Vietnam Spratly Islands Territorial Marker.JPG|250px|nhỏ|phải|
Trong thời kì 1961-1963, Việt Nam Cộng hoà tiếp tục viếng thăm và dựng bia nhiều đảo. Năm 1961, tàu HQ-02 ''Vạn Kiếp'' và HQ-06 ''Vân Đồn'' thăm Song Tử Tây - Thị Tứ - Loại Ta - An Bang; năm 1962, tàu ''Tuỵ Động'' và HQ-05 ''Tây Kết'' thăm Trường Sa - Nam Ai (tức Nam Yết); năm 1963, ba tàu gồm HQ-404 ''Hương Giang'', HQ-01 ''Chi Lăng'' và HQ-09 ''Kì Hoà'' đã dựng bia trên Trường Sa (19 tháng 5), An Bang (20 tháng 5), Thị Tứ - Loại Ta (22 tháng 5) và Song Tử Đông - Song Tử Tây (24 tháng 5).<ref name="sachtrang2">{{chú thích web |url=http://nghiencuubiendong.vn/download/doc_download/131-white-paper-on-the-hoang-sa-paracel-and-truong-sa-spratly-islands-part-2 |title=White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands (1975) [Sách trắng về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa (1975)] [phần trích 2] |publisher=Ministry of Foreign Affairs (Republic of Vietnam) [Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hoà] |accessdate=2012/9/7 |language=tiếng Anh}} Lưu trữ bởi WebCite® tại [http://www.webcitation.org/6BiTKICsU đây].</ref> Tuy nhiên, Hải quân Việt Nam Cộng hòa không duy trì sự hiện diện liên tục ở quần đảo Trường Sa do vướng phải cuộc [[chiến tranh Việt Nam]].
Ngày 13 tháng 7 năm 1971,
Đầu năm 1974, một thời gian ngắn sau thất bại trong [[Hải chiến Hoàng Sa 1974|trận chiến tại nhóm đảo Lưỡi Liềm]] thuộc quần đảo Hoàng Sa, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ra quyết định tăng cường lực lượng tại Trường Sa và chỉ thị quân đội tiến hành [[chiến dịch Trần Hưng Đạo 48|chiến dịch ''Trần Hưng Đạo 48'']] nhằm chiếm một số đảo. Liên tiếp trong các tháng 2 và tháng 3 cùng năm, Việt Nam Cộng hoà tái khẳng định lại chủ quyền của mình đối với hai quần đảo bằng nhiều con đường như thông qua đại sứ ở Manila, qua hội nghị của Liên Hiệp Quốc về luật biển ở [[Caracas]] và hội nghị của Hội đồng Kinh tài Viễn Đông ở [[Colombia]].<ref>{{harvnb|Nguyễn|2002|p=112}}</ref> Từ ngày 14 đến ngày 28 tháng 4 năm 1975, các lực lượng hải quân của [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]] và [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Việt Nam Dân chủ Cộng hoà]] đã [[Chiến dịch Trường Sa và các đảo trên Biển Đông|hoàn toàn thay thế]] lực lượng Việt Nam Cộng hòa trên năm đảo là Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa.
Vào cuối thập niên 1970, trong các ngày 30 tháng 12 năm 1978 và 7 tháng 8 năm 1979, Việt Nam phản đối Trung Quốc và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Ngày 28 tháng 9 năm 1978, Việt Nam phản đối Philippines sáp nhập các đảo thuộc Trường Sa vào lãnh thổ của mình.<ref>{{harvnb|Nguyễn|2002|p=113}}</ref>
Dòng 307:
Sang thập niên 1980, Việt Nam tiếp tục nhiều lần lên tiếng để phản ứng lại hành động của một số quốc gia khác tại Trường Sa. Ngày 5 tháng 2 năm 1980, Việt Nam phản bác văn kiện ngày 30 tháng 1 năm 1980 của Trung Quốc về Nam Sa và Tây Sa. Trong năm 1982, Việt Nam sáp nhập huyện Trường Sa vào tỉnh [[Phú Khánh]].<ref>{{chú thích web |url=http://moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=3853 |title=Nghị quyết của Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam ngày 28 tháng 12 năm 1982 về việc sáp nhập huyện Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai vào tỉnh Phú Khánh |publisher=Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam |date=1982/12/28 |accessdate=2012/9/18}} Lưu trữ bởi WebCite® vào ngày 13 tháng 11 năm 2012 tại [http://www.webcitation.org/6C8vlwz25 đây].</ref> Năm 1983, Việt Nam phản đối việc Malaysia chiếm đá Hoa Lau.<ref>{{harvnb|Chemillier-Gendreau|2000|p=47}}</ref> Năm 1989, Việt Nam chia tách tỉnh [[Phú Khánh]] và quy thuộc Trường Sa vào tỉnh [[Khánh Hòa]].
Năm 2007,
====Chỉ trích====
Dòng 323:
Năm 1958, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) tuyên bố chủ quyền của mình đối với các đảo thuộc biển Đông dựa vào cơ sở lịch sử. Họ cho rằng quần đảo Trường Sa đã từng là một phần của Trung Quốc trong gần 2.000 năm và đưa ra các đoạn trích trong các thư tịch cổ cũng như các bản đồ từ thời [[nhà Hán]], [[nhà Đường]], [[nhà Tống]], [[nhà Nguyên]], [[nhà Thanh]] và gần nhất là thời [[Trung Hoa Dân Quốc]] mà theo Trung Quốc là có nhắc tới quần đảo Trường Sa. Hiện vật khảo cổ như những mảnh đồ gốm Trung Quốc và tiền cổ được tìm thấy ở đó cũng được Trung Quốc sử dụng nhằm chứng minh cho tuyên bố của mình.
Năm 1958, [[Thủ tướng Việt Nam|
Ngoài ra, Trung Quốc còn khẳng định rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và nhiều quốc gia khác đã nhiều lần công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa trong quá khứ. Theo Trung Quốc thì:
Dòng 347:
Tháng 7 năm 2012, báo chí Việt Nam đồng loạt đưa tin về tấm "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" do [[nhà Thanh]] lập và nhà xuất bản Thượng Hải ấn hành năm 1904, trong đó điểm cực nam của Trung Quốc dừng lại ở đảo [[Hải Nam]] và không có ''Nam Sa'' hay ''Tây Sa'' (Hoàng Sa) mà Trung Quốc đang tuyên bố chủ quyền. Mai Ngọc Hồng, người tặng bản đồ này cho Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, nói rằng tấm bản đồ này được lập trong vòng một trăm chín mươi sáu năm, từ thời vua [[Khang Hi]] đến năm 1904 mới xuất bản; Nguyễn Hữu Tâm từ Viện Sử học Việt Nam bổ sung thêm là tỉ lệ xích của bản đồ chính xác.<ref>{{chú thích web |url=http://vietnam.vn/c1024n20120803103009437/bao-chi-trung-quoc-dua-tin-ve-ban-do-nha-thanh-khong-co-hoang-sa-truong-sa.htm<!--http://vnexpress.net/gl/the-gioi/2012/07/trung-quoc-dua-tin-ve-ban-do-nha-thanh-khong-co-hoang-sa/--> |title=Báo chí Trung Quốc đưa tin về bản đồ nhà Thanh không có Hoàng Sa, Trường Sa |publisher=Cục Thông tin Đối ngoại |date=2012/7/28 |accessdate=2012/9/13}} Lưu trữ bởi WebCite® tại [http://www.webcitation.org/6BiSJUi2b đây].</ref> Báo chí Việt Nam lập luận rằng đây là bằng chứng cho thấy việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lịch sử tại Trường Sa (và Hoàng Sa) là không có căn cứ.<ref>{{chú thích báo |title=Thêm sử liệu chống lại Trung Quốc |author=Chử Đình Phúc |url=http://nld.com.vn/20120803101621757p0c1002/them-su-lieu-chong-lai-trung-quoc.htm |publisher=Người lao động |date=2012/8/4 |accessdate=2012/9/13}}</ref>
Về công hàm của Phạm Văn Đồng, báo chí Việt Nam đã lên tiếng phản bác lại,
===<span class="mw-headline" id="Philippines">Philippines</span>===
|