Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hậu Đường”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{5d10k}}
 
'''Nhà Hậu Đường''' là một trong năm triều đại trong thời kỳ [[Ngũ Đạiđại Thập Quốcquốc]], cai trị phía bắcBắc Trung Quốc từ năm 923 đến năm 936.
 
==Thành lập==
''Xem thêm bài:'' '''[[Nhà Hậu Lương]]'''
 
Lý Khắc Dụng là thủ lĩnh tộc Sa Đà, có công cùng [[Chu Ôn]] dẹp khởiKhởi nghĩa [[Hoàng Sào]] cuối thời Đường. Sau khi Hoàng Sào bị diệt, hai người cùng các quân phiệt khác quay sang tranh chấp quyền bá chủ khi nhà Đường đã suy yếu. Lý Khắc Dụng yếu thế hơn phải rút về Sơn Tây. Chu Ôn giành quyền kiểm soát phần lớn trungTrung nguyênNguyên, cướp ngôi nhà Đường, lập ra nhà Hậu Lương.
 
Con Khắc Dụng là Lý Tồn Úc nối chí cha quyết tâm diệt Lương rửa hận. Thế lực ngày càng hùng mạnh, Lý Tồn Úc trước tiên diệt nước Yên của cha con Lưu Nhân Cung - Lưu Thủ Quang, đánh Liêu và tới năm [[923]] diệt [[nhà Hậu Lương]] để lên ngôi.
 
Ông dời đô về [[Lạc Dương]]. Tự nhận mình là người thừa kế của họ Lý [[nhà Đường]], ông đổi quốc hiệu là '''Đường''', sử sách sau này gọi là Hậu Đường để phân biệt với [[nhà Đường]] trước đó. Lý Tồn Úc tức là vua Đường Trang Tông.
 
==Chính trị==
Dòng 16:
 
==Các cuộc binh biến==
Sau khi diệt được Hậu Lương, Lý Tồn Úc chỉ hưởng lạc không lo chính sự, thích xem diễn tuồng. Năm 926, ông bị một kép hát giết chết khi 41 tuổi. Một người con nuôi của Lý Khắc Dụng (anh nuôi của Tồn Úc là Lý Tự Nguyên (hay Lý Tồn Đàn)<ref>Vốnvốn có tên là Mạc Khắc Liệt</ref>, khi đó đã 58 tuổi, mang quân trấn thủ từ Hà Đông về chiếm giữ kinhKinh thành Lạc Dương lên làm vua, tức [[Đường Minh Tông]]. Có ý kiến cho rằng việc thí nghịch Đường Trang Tông do Tự Nguyên chủ mưu.
 
Đường Trang Tông là một trong các vị vua giỏi thời Ngũ Đại. Các nhà sử học đánh giá khá cao thời trị vì của ông trong hơn 50 năm loạn lạc của lịch sử Trung Quốc. Tương truyền trong cảnh Trung Hoa loạn lạc, ông thường thắp hương khấn trời rằng: ''"Tôi là người Hồ, may được làm vua. Mong trời sinh ra bậc minh quân để dẹp loạn khiến thiên hạ thái bình"''. Có ý kiến cho rằng lời khẩn cầu của ông thực hiện năm 927, đã được linh ứng, vì năm đó [[Triệu Khuông Dận]] ra đời, sau này trở thành người lập ra [[nhà Tống]], chấm dứt thời loạn lạc Ngũ Đại thập quốc.
 
Năm 933, Đường Minh Tông chết, con nhỏ Lý Tùng Hậu lên thay, tức Đường MânMẫn Đế. Được 1 năm, một người con nuôi của Minh Tông là Lý Tùng Kha không phục, làm binh biến giết Tùng Hậu lên ngôi, tức là Đường Phế Đế.
 
==Diệt vong==
Con rể của Đường Minh Tông là [[Thạch Kính Đường]] muốn giành ngôi nhà Hậu Đường, bèn giao thiệp với người Khiết Đan ([[nhà Liêu]]) phía bắc xin viện binh, với giao ước cắt đất 16 châu Yên Vân cho Liêu nếu thắng lợi. Khẩn thiết hơn, Kính Đường đã 45 tuổi, xin gọi vuaVua Liêu Gia Luật Đức Quang mới 34 tuổi làm "cha". Đức Quang đồng ý giúp binh, kết quả năm 936 diệt được Đường Phế Đế, đưa Kính Đường lên ngôi, lập ra [[nhà Hậu Tấn (Ngũ đại)|nhà Hậu Tấn]].
 
Nhà Hậu Đường truyền được mười ba năm, tổng cộng bốn đời vua.
Dòng 36:
| [[Hậu Đường Minh Tông|Minh Tông]] (明宗) || [[Lý Tự Nguyên]] (李嗣源) || [[926]]-[[933]] || Thiên Thành (天成) [[926]]-[[930]]<br>Trường Hưng (長興) [[930]]-[[933]]
|-
| [[Hậu Đường MânMẫn Đế|MânMẫn Đế]] (閔帝) || [[Lý Tùng Hậu]] (李從厚) || [[933]]-[[934]] || Ứng Thuận (應順) [[933]]-[[934]]
|-
| [[Hậu Đường Phế Đế|Phế Đế]] (廢帝) || [[Lý Tùng Kha]] (李從珂) || [[934]]-[[936]] || Thanh Thái (清泰) [[934]]-[[936]]