Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hậu Tấn”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 1:
{{5d10k}}
'''Nhà Hậu Tấn''' ([[936]]-[[947]]) là một trong năm triều đại, gọi là '''Ngũ
==Thành lập==
Thạch Kính Đường ([[892]]-[[942]]), người gốc Sa Đà, là con rể
Việc làm cung kính ngoại bang và nhất là cắt đất phía bắc của Thạch Kính Đường bị các nhà sử học Trung Quốc phê phán mạnh mẽ, coi là thủ phạm bán nước dẫn đến việc xâm lấn, chiếm đóng của các ngoại tộc nối tiếp nhau ([[Khiết Đan]], [[Đảng Hạng]], [[Nữ Chân]], [[Mông Cổ]]) ở phía bắc Trung Quốc suốt hơn 400 năm (từ thời Hậu Tấn tới [[nhà Minh]]) mà các chính quyền cai trị Trung Nguyên của Trung Quốc không thể nào khôi phục lại được.
Dòng 15:
Hành động cung kính ngoại bang của Thạch Kính Đường khiến nhiều tướng địa phương như An Trọng Vinh không phục, nổi dậy làm loạn. Dù sau đó các cuộc làm loạn bị dẹp nhưng chính quyền Hậu Tấn càng suy yếu.
Năm 942, Tấn Cao Tổ chết, con người anh là Thạch Trọng Quý lên ngôi, tức là Tấn Xuất Đế.
Người Khiết Đan thấy vậy mưu tính việc chiếm trọn miền
Đức Quang liền quay sang cách cũ, chia rẽ nội bộ Tấn, mua chuộc tướng Đỗ Trọng Uy, hứa đưa lên làm vua như giúp Thạch Kính Đường trước đây. Một bộ phận tướng Tấn cũng phản Tấn theo Liêu. Năm 947, người Khiết Đan chiếm được Kinh đô và gần hết miền Bắc Trung Quốc. Thạch Trọng Quý cùng gia quyến bị người Khiết Đan bắt giữ
Nhà Hậu Tấn truyền được mười một năm tổng cộng hai đời, rồi bị Khiết Đan diệt. [[Lưu Tri Viễn]], một bộ tướng của Thạch Kính Đường, nhân khi lòng dân oán ghét ngoại tộc Khiết Đan chiếm đóng bèn đem quân đánh đuổi Khiết Đan năm [[947]] để thành lập [[nhà Hậu Hán (Ngũ đại)|nhà Hậu Hán]]
Dòng 41:
[[Thể loại:Thành lập 936|Hậu Tấn (Ngũ đại), nhà]]
[[Thể loại:Kết thúc 947|Hậu Tấn (Ngũ đại), nhà]]
[[Thể loại:Ngũ
[[Thể loại:Nhà Hậu Tấn (Ngũ đại)| ]]
[[Thể loại:Lịch sử Trung Quốc|Hậu Tấn (Ngũ đại), nhà]]
|