Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bàn thành tứ hữu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
"phát sinh" hay "phái sinh"?
Dòng 19:
Năm 1936, Hàn Mặc Tử thôi làm báo ở [[Sài Gòn]] về Qui Nhơn, gặp Yến Lan và Chế Lan Viên.
 
Theo web...[http://www.mientrung.com/content/view/5270/132/ báo Bình Định], thì: “Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên quen nhau khi Chế 16 tuổi và Hàn 24 tuổi. Chế thường mang thơ của mình cho Hàn đọc, góp ý. Có bài thơ mới, Hàn Mặc Tử lại đọc cho Chế Lan Viên nghe. Cũng với sự khuyến khích của Hàn, Chế đã hoàn thành bản thảo tập ''Điêu tàn'' và xuất bản năm [[1937]].<ref>Mấy mươi năm sau (1987), trong bài Tựa tập thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên đã xúc động viết: “1935-1939 là thời kỳ tôi học ở Qui Nhơn, giới thiệu và dìu dắt tôi vào làng thơ là công Anh (Hàn Mặc Tử) lúc đó.”</ref>
 
Còn cuộc gặp gỡ giữa Yến Lan và Hàn Mặc Tử thật đặc biệt. Đó là vào một sáng chủ nhật giữa năm 1930, Yến Lan đang ngồi chép lại bài thơ mới làm hôm qua tại chùa Ông (Bình Định) thì Hàn Mặc Tử đưa [[Nguyễn Công Hoan]] đến vãn cảnh chùa. Biết Yến Lan có làm thơ, Hàn Mặc Tử mời Yến Lan có dịp vào Quy Nhơn ghé chơi tại nhà ở số 20 [[Khải Định]]...
Dòng 29:
Trong ''Hàn Mặc Tử - Hương thơm & mật đắng'' có đoạn:
 
"Một người nghiên cứu văn học ở Bình Định đương thời, chơi rất thân với nhóm thơ là [[Trần Thống]] (tức Trần Kiên Mỹ) đã hết lời ngợi ca tình bạn đó trong bài nói chuyện ''Bình Định lắm duyên với thi sĩ''. Ông Mỹ đã dùng hình tượng tứ linh để ví với ''Bàn thành tứ hữu''. Trong đó, [[long]] là Hàn Mặc Tử, [[lân]] là Yến Lan, [[qui]] là Quách Tấn và [[phụng]] là Chế Lan Viên. Đó là một cách so sánh lý thú và khá phù hợp với tính cách từng người trong nhóm.
 
Lạ một điều nữa là, tuy "nhóm thơ giao du rất rộng, nhưng không mở rộng nhóm thơ", nghĩa là trước sau chỉ có bốn người..."<ref name="a">Theo ''Hàn Mặc Tử- Hương thơm & mật đắng'', sách đã dẫn, tr. 46-53.</ref>