Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tính Không”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: clean up using AWB
n clean up, General fixes using AWB
Dòng 2:
{{Cần hệ thống lại}}
{{Buddhism}}
'''Không tính''' (zh. 空, 空 性, sa. ''śūnya'', tính từ, sa. ''śūnyatā'', danh từ, bo. ''stong pa nyid'' སྟོང་པ་ཉིད་), nghĩa là “trống"trống rỗng”rỗng", “trống"trống không”không", là một khái niệm trung tâm của đạo Phật, quan trọng nhất và cũng trừu tượng nhất. Trong thời đạo Phật nguyên thủy, kinh điển đã nhắc rằng, mọi sự vật là giả hợp, [[hữu vi]] (sa. ''saṃskṛta''), trống rỗng (sa. ''śūnya''), [[Vô thường]] (sa. ''anitya''), [[Vô ngã]] (sa. ''anātman'') và [[Khổ (Phật giáo)|Khổ]] (sa. ''duḥkha'').
 
Trong [[Tiểu thừa]], tính Không nhằm nói về thể tính của con người và được sử dụng như một tính từ (sa. ''śūnya''). Đại thừa đi thêm một bước nữa, sử dụng tính Không như một danh từ (sa. ''śūnyatā''), xem Không là vạn sự, vạn sự là Không, tức mọi hiện tượng thân tâm đều không hề có [[tự tính]] (sa. ''svabhāva''). Mọi pháp đều chỉ là những dạng trình hiện (呈現, en. ''appearance'', de: ''Erscheinung''), chúng xuất phát từ tính Không, là không. Tính Không vừa chứa tất cả mọi hiện tượng, vừa xuyên suốt các trình tự phát triển sự vật.
Dòng 12:
Trong bộ kinh [[Bát-nhã-ba-la-mật-đa]], tính Không được xem là cái chung nhất của tất cả mọi hiện tượng mâu thuẫn lẫn nhau; kinh này cho rằng Sắc và Không không hề khác nhau (xem ''[[Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh|Tâm kinh]]'').
 
[[Trung quán tông]] thì cho mọi sự vật đều trống rỗng, chúng chỉ dựa lên nhau mà có ([[duyên khởi]]). Thể tính của toàn thế giới là Không, nó là “cái"cái tĩnh lặng của thiên hình vạn trạng”trạng". Tính Không là thể tính của mọi khái niệm, kể cả khái niệm “tính"tính không”không" bao trùm ngôn ngữ. Vì vậy không thể dùng ngôn ngữ, dùng khái niệm nói về Không. Trung quán tông cho rằng, tính Không có ba chức năng: nguồn gốc của tất cả mọi sinh thành của chúng sinh, của sự hoại diệt của chúng, đồng thời tạo cho chúng điều kiện thoát khỏi [[Luân hồi]]. Một khi con người dùng trí Bát-nhã kiến ngộ được Không là con người đạt [[Niết-bàn]].
 
Đối với [[Duy thức tông]] (sa. ''yogācārin'', ''vijñānavādin'') thì mọi sự đều trống rỗng vì chúng chỉ xuất phát từ [[Tâm]] (sa. ''citta''). Trong trường phái này thì Tâm và tính Không là một.
 
Với thời gian, người ta có thể nhận ra một điểm khác biệt giữa Trung quán tông nguyên thủy và các giáo pháp Trung quán của Tây Tạng: nếu Trung quán chỉ nói tới tính Không bằng cách phủ nhận cái “đang"đang là”là" thì các giáo phái này xem tính Không là một cái gì đó có tính chất khẳng định (''positive'') có thể nắm bắt được, tính Không này mang một tính chất “rộng"rộng mở”mở", có một mối liên hệ với [[Tịnh quang]] (sa. ''ābhāsvara'', ánh sáng rực rỡ, xem [[Na-lạc lục pháp]]).
 
== Tính Không trong Phật giáo Tây Tạng ==
Tại Tây Tạng, quan điểm tính Không cũng đóng một vai trò quan trọng trong khi truyền giáo lí Trung quán qua xứ này. Luận sư Ấn Độ [[Kamalaśīla|Liên Hoa Giới]] (sa. ''kamalaśīla'') và Hòa thượng Đại Thừa, đại diện của Thiền tông Trung Quốc tranh luận nhau, liệu con đường giác ngộ chân lí phải qua từng cấp bậc ([[Tiệm ngộ]]) hay chỉ là một trực nhận bất ngờ ([[Đốn ngộ]]). Cuối cùng, tại Tây Tạng, người ta chấp nhận con đường “từng"từng cấp”cấp" và vì thế kể từ khoảng thế kỉ 11, người ta bắt đầu thiết lập nhiều phép tu và quan niệm triết học về tính Không, còn được ghi lại trong những tác phẩm gọi chung là [[Tất-đàn-đa]] (sa. ''siddhānta''). Tất cả mọi trường phái của Trung quán đều lấy quan điểm “hai"hai chân lí”lí" của Long Thụ làm gốc:
* Chân lí quy ước (sa. ''saṃvṛti-satya''), có giá trị trong đời sống bình thường, có giá trị cho các hiện tượng do duyên khởi tạo nên, nhưng chúng không tồn tại thật sự;
* Chân lí tuyệt đối (sa. ''paramārthasatya''), là tính Không, là thể “nằm"nằm ngoài tồn tại hay không tồn tại”tại", là thể không thể nghĩ bàn, chỉ có thể thông đạt được qua sự trực nhận.
Tất cả các điểm khác nhau giữa các phái thuộc Trung quán là hiểu thế nào về hai chân lí đó và làm sao mà tiếp cận, trực ngộ được tính Không. Các phép tu của Phật giáo Tây Tạng dần dần không chỉ tự giới hạn nơi những quan điểm triết học mà còn đi sâu vào các phép Tantra để tiếp cận tính Không. Đặc biệt là phép tu [[Đại thủ ấn]] (sa. ''mahāmudrā'') và [[Đại cứu cánh]] chỉ rõ cho hành giả cách thể nhập kinh nghiệm về tính Không.
 
Dòng 34:
:Thế nào là "Trung"? Trung là trung dung, nằm ngoài hai cực biên trường tồn và đoạn diệt. [Như thế thì nó đích thật là khoảng giữa, nơi tồn tại của các hiện tượng.] Kinh luận trình bày chính xác ý nghĩa Trung dung như nó đích thật là được gọi là kinh luận của Trung đạo; và một tâm thức nhận biết được tính Trung dung này được gọi là Trung quán...
</div>
Với thời gian, người ta có thể nhận ra một điểm khác biệt giữa Trung quán tông nguyên thủy và các giáo pháp Trung quán của Tây Tạng: nếu Trung quán chỉ nói tới tính Không bằng cách phủ nhận cái “đang"đang là”là" thì các giáo phái này xem tính Không là một cái gì đó có tính chất khẳng định (''positive'') có thể nắm bắt được, tính Không này mang một tính chất “rộng"rộng mở”mở", có một mối liên hệ với [[Tịnh quang]] (sa. ''ābhāsvara'', ánh sáng rực rỡ, xem [[Na-lạc lục pháp]]).
 
== Tham khảo ==