Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tây sương ký”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
n clean up, General fixes using AWB
Dòng 2:
'''Tây sương ký''' (西廂記, truyện ký mái Tây), còn có tên đầy đủ là '''Thôi Oanh Oanh đãi nguyệt Tây sương ký''' (崔鶯鶯待月西廂記, truyện về Thôi Oanh Oanh chờ trăng dưới mái Tây), là vở tạp kịch của [[Vương Thực Phủ]], sáng tác trong khoảng những năm Đại Đức (1297-1307) đời [[Nguyên Trinh|Nguyên Thành Tông]] (1295-1307), miêu tả cuộc tình duyên vượt qua môn đăng hộ đối và lễ nghi [[phong kiến]] của Thôi Oanh Oanh và chàng thư sinh Trương Quân Thụy.
 
Khi công diễn lần đầu, ''Tây sương ký'' được khán giả đương thời yêu thích phong là “Tây"Tây sương ký thiên hạ đoạt mị”mị" (西廂記天下奪媚, Tây sương ký đoạt được cái đẹp rất mực của thiên hạ). [[Kim Thánh Thán]] về sau đã chọn và xếp đặt ''Tây sương ký'' vào vị trí thứ 6 trong [[Lục tài tử thư]] (6 cuốn sách tài tử ưu tú).
 
==Tác giả và tác phẩm==
Vương Thực Phủ là nhà viết [[tạp kịch]] nổi tiếng [[nhà Nguyên|đời Nguyên]], người Đại Đô (nay là Bắc Kinh), năm sinh năm mất đều chưa rõ<ref name="vedepvanchuong">''101 vẻ đẹp văn chương thế giới và Việt Nam'', NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2006”2006"</ref>. Trong đời mình, Vương Thực Phủ sáng tác được khoảng 40 [[kịch bản phim|kịch bản]]<ref name="tdvh2">''Từ điển văn học, bộ mới'', NXB Thế giới, H. 2003, trang 2053.</ref>, trong đó Tây sương kí được viết vào khoảng đời [[Nguyên Trinh]], năm Đại Đức (1295 -1307), là một tác phẩm tiêu biểu nhất của ông.
 
''Tây sương kí'' vốn xuất phát từ ''Hội chân kí'' (会真記, ghi chuyện gặp gỡ chân thành), còn gọi là ''Oanh Oanh truyện'' (''鶯鶯傳''), của [[Nguyên Chẩn]] (''Yuan Zhen'') đời [[nhà Đường|Đường]]. Kịch bản cũng cũng cho thấy những ảnh hưởng lớn từ vở ''Tây sương kí chư cung điệu'' (|西廂記諸宫調, Các điệu thức âm nhạc của câu chuyện ghi dưới mái Tây) của [[Đổng Giải Nguyên]] đời [[nhà Kim]]<ref name="tdvh2"/>.
Dòng 27:
 
==Giá trị nghệ thuật==
Thành tựu nổi bật nhất của ''Tây sương kí'' là thay đổi chủ đề tình yêu tuân thủ lễ giáo [[phong kiến]] và kết cục có tính chất bi kịch của ''Oanh Oanh truyện'' thành sự ca ngợi tình yêu nam nữ chân thành tha thiết, dám phá bỏ sự ràng buộc của lễ giáo, bền bỉ đấu tranh để có kết cục tốt đẹp về sau<ref name="vedepvanchuong"/>. Theo ''Hội chân kí'', khi giấc mơ qua rồi cũng là lúc cuộc tình ra đi. Nửa đường đứt gánh, chàng theo đường chàng lấy vợ, nàng theo đường nàng lấy chồng, trong khi đó ''Tây sương kí'' tình duyên hai người không đứt đoạn mà kết thúc có hậu<ref name="giaithoai"/>. Tuy cách giải quyết mâu thuẫn vẫn là con đường khoa cử, công danh, nhưng tác phẩm vẫn là tiếng nói đả kích mạnh mẽ quan niệm “môn"môn đăng hộ đối”đối", “cha"cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”đấy" trong [[tình yêu]] và [[hôn nhân]] phong kiến, đề cao tự do yêu đương và tự do [[hôn nhân|kết hôn]]<ref>''Từ điển văn học (bộ mới)'', NXB Thế giới, H. 2003, trang 1616-1617.</ref>.
 
Lời kịch của Tây sương kí tươi đẹp trong sáng, giàu ý thơ. Nhiều tiết đoạn, đối thoại biểu cảm như những bài thơ trữ tình<ref name="vedepvanchuong"/>. Tuy ảnh hưởng bút pháp, đề tài từ ''Oanh Oanh truyện'' và đặc biệt mang dấu ấn của ''Tây sương kí chư cung điệu'' nhưng Vương Thực Phủ đã gia công về nhiều mặt, phát triển và nâng cao truyện, lấp hết những chỗ sơ hở trong truyện, loại bỏ những chỗ rườm rà, làm cho tính cách nhân vật phát triển hợp lí hơn. Vương Thực Phủ cũng đã phát huy được sở trường của thể [[hí kịch]] cao độ trong việc đẩy mâu thuẫn, kịch tính của truyện lên cao trào, tính cách nhân vật trở nên rõ nét hơn, tâm lí miêu tả tế nhị hơn, ngôn ngữ kịch tinh luyện hơn<ref name="tdvh2"/>.