Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đại Tỉnh thức”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Đặc điểm: clean up, replaced: → using AWB
n clean up, General fixes using AWB
Dòng 26:
Các sử gia vẫn tiếp tục tranh luận về ảnh hưởng chính trị của cuộc đại tỉnh thức đối với cuộc [[Cách mạng Mỹ]], diễn ra ngay sau đó. Heimert ([[1966]]) lập luận rằng trong thời kỳ trước khi xảy ra cuộc Cách mạng Mỹ, Thần học Calvin và Jonathan Edwards là nguồn cung ứng ý thức hệ chính trị cấp tiến theo khuynh hướng dân chủ xã hội; mặt khác, tôn giáo [[Phong trào Tin Lành|Tin Lành]] thể hiện và khuyến khích [[chủ nghĩa quốc gia]]. Thần học Calvin được vun trồng tại các khu định cư Mỹ lập nền cho hiện tượng thức tỉnh tâm linh, cùng lúc là tác nhân thúc đẩy cuộc Cách mạng Mỹ. Theo Heimert, ảnh hưởng chủ đạo của cuộc đại tỉnh thức là kiến tạo tinh thần quốc gia cho người Mỹ, đây là nhân tố quyết định dẫn đến cuộc cách mạng.
 
Cuộc Đại Tỉnh thức lần thứ nhất khởi phát từ những lời thuyết giáo mạnh mẽ và đầy sức thuyết phục tập chú vào việc quở trách [[tội lỗi]] và nhu cầu nhận lãnh ơn [[cứu rối|cứu chuộc]] qua hành động công khai xưng tội để tiếp nhận ân điển của Thiên Chúa, dẫn người nghe đến “trải"trải nghiệm tiếp xúc với Thiên Chúa theo cách riêng của mỗi người”người". Các diễn giả tra xem bản chất của điều người Mỹ thường xem là giao ước của Thiên Chúa dành cho dân tộc họ, và quở trách nếp sống suy đồi, chuộng vật chất, thích hưởng thụ tại các khu định cư đang trở nên giàu có tại Mỹ. Họ xem đó là ảnh hưởng đến từ [[Anh]], như thế, cần cắt đứt quan hệ với mẫu quốc để có thể tái cung hiến nước Mỹ cho Thiên Chúa.<ref>McLaughlin (1966), Goff (1998).</ref>
 
Cuộc Đại Tỉnh thức biến tôn giáo trở thành trải nghiệm cá nhân cho người bình thường bằng cách kiến tạo nhận thức sâu sắc về tội lỗi và ơn cứu chuộc, cùng lúc với sự tra xét nội tâm và tinh thần tận hiến cho những chuẩn mực mới trong đời sống tâm linh. Nhà sử học Sydney E. Ahlstrom nhận thấy yếu tố này trong các cuộc phục hưng tôn giáo xảy ra ở những nơi khác như [[Phong trào Sùng tín]] tại [[Đức]], cuộc Phục hưng Tin Lành và [[Phong trào Giám Lý]] tại Anh.<ref>Ahlstrom p. 263</ref>
Dòng 63:
Các giáo hội Kháng Cách mở rộng hoạt động truyền giáo ở Hoa Kỳ và tại nhiều nước trên khắp thế giới. Số lượng các đại học do các giáo hội thành lập tăng trưởng nhanh cùng với chất lượng giáo dục. [[YMCA]] có mặt ở nhiều thành phố, cùng lúc với các nhóm thanh niên Cơ Đốc như Epworth League (Giám Lý), và Walther League ([[Giáo hội Luther|Lutheran]]).
===Ảnh hưởng===
Cuộc Đại Tỉnh thức lần thứ ba được xem là ảnh hưởng chủ đạo dẫn dắt nước Mỹ qua những ngày khó khăn khi phải gánh chịu hậu quả nặng nề của cuộc [[Đại Suy thoái]] và [[Đệ nhị thế chiến|chiến tranh thế giới lần thứ hai]]. Ý nghĩa của thuật từ “thức"thức tỉnh”tỉnh" ngụ ý một xã hội mê ngủ hoặc trì trệ, thụ động và bị thế tục hóa. Như thế, “thức"thức tỉnh”tỉnh" là thuật từ bắt nguồn từ những người Tin Lành<ref>Lambert, Frank. ''Inventing the "Great Awakening"'', Princeton University Press, 1999.</ref> và được sử dụng thường xuyên bởi cộng đồng này, kéo dài cho đến ngày nay như trong trường hợp của [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[George W. Bush]].<ref>[http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2006/09/12/AR2006091201594.html "Bush Tells Group He Sees a 'Third Awakening'"] ''Washington Post,'' Sept. 12 2006.</ref>
==Đại Tỉnh thức lần thứ tư==
Dù vẫn còn bất đồng về việc liệu có nên áp dụng thuật từ “Đại"Đại Tỉnh thức”thức" cho giai đoạn từ cuối [[thập niên 1960]] đến đầu [[thập niên 1970]] hay không, thời kỳ này chứng kiến nhiều sự thay đổi đáng kể trong lĩnh vực tôn giáo tại [[Hoa Kỳ]].<ref>Robert William Fogel (2000), ''The Fourth Great Awakening & the Future of Egalitarianism'' (University of Chicago Press, ISBN 0-226-25662-6)</ref>
 
Trong khi các giáo hội “chính"chính lưu”lưu" thuộc cộng đồng Kháng Cách sút giảm đáng kể số lượng tín hữu và ảnh hưởng xã hội thì một số giáo phái truyền thống như [[Baptist Nam phương]] và ''Missouri Synod Lutheran'' phát triển mạnh mẽ số lượng thành viên, mở rộng ảnh hưởng trên khắp nước Mỹ, tham gia các cuộc tranh luận thần học, và trở nên các thế lực chính trị hùng mạnh. Cùng lúc, là sự lớn mạnh của chủ nghĩa thế tục, và các giáo hội phải đối đầu với các vấn đề như quyền của người đồng tính, quyền phá thai và phải nỗ lực bảo vệ học thuyết sáng tạo.<ref>William G. McLoughlin (1978), ''Revivals, Awakenings and Reform: An Essay on Religion and Social Change in America, 1607-1977''</ref><ref>Randall Balmer (2001), ''Religion in Twentieth Century America''</ref>
 
Thời kỳ này cũng chứng kiến sự phát triển của các nhà thờ độc lập có chủ trương liên phái, và các “trung"trung tâm đức tin cộng đồng”đồng", cùng lúc là sự trỗi dậy của hiện tượng đại giáo đoàn, và các tổ chức truyền giáo và công tác xã hội phi giáo phái. Phong trào Giê-xu được xem là một phần trong cuộc đại tỉnh thức lần thứ tư.
 
Cũng thuộc thời kỳ này, theo quan điểm của một số người, là cuộc [[Phong trào Ân tứ]] từ năm [[1961]] đến [[1982]]. Khởi nguồn từ [[Phong trào Ngũ Tuần]], tập chú vào trải nghiệm mà họ xem là những “ân"ân tứ”tứ" của [[Chúa Thánh Linh]] như nói tiếng lạ, chữa bệnh bằng đức tin và nói tiên tri; các “ân"ân tứ”tứ" này cũng được xem là dấu chứng của trải nghiệm “đầy"đầy dẫy Chúa Thánh Linh”Linh". Dù khởi phát từ cộng đồng Kháng Cách, ảnh hưởng của phong trào này lan rộng trong [[Giáo hội Công giáo La Mã]] vào lúc các nhà lãnh đạo giáo hội tỏ thái độ rộng mở với chủ trương đại kết, bớt nhấn mạnh đến cấu trúc giáo hội, đồng thời quan tâm nhiều hơn đến vai trò của giáo dân trong giáo hội.<ref>Edith L Blumhofer and Randall Balmer (1993), ''Modern Christian Revivals''</ref>
 
==Chú thích==