Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phong trào chống đối Hitler”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, General fixes using AWB |
n Alphama Tool, General fixes |
||
Dòng 3:
== Bước khởi đầu của Phong trào chống Hitler ==
Giữa năm [[1938]], sau 5 năm rưỡi dưới chế độ Quốc xã, số ít người chống lại [[Adolf Hitler]] thấy rõ rằng chỉ Quân đội mới có đủ sức mạnh vật chất để lật đổ ông. Công nhân và các giai cấp trung lưu và thượng lưu đều không có phương tiện trong tay. Họ không có tổ chức bên ngoài các nhóm của đảng Quốc xã, và dĩ nhiên không được vũ trang. Dù rằng về sau người ta viết nhiều về phong trào
Lúc đầu, sự chống đối là từ dân thường. Các tướng lĩnh đã quá hài lòng với việc xóa bỏ những hạn chế của [[Hòa ước Versailles]] và với việc nhận nhiệm vụ tái vũ trang. Điều mỉa mai là những dân thường cầm đầu chống lại Hitler chính là những người đã từng phục vụ ông trong chức vụ quan trọng. Phần lớn số này đã từng hăng say với chủ nghĩa Quốc xã, và chỉ từ năm [[1937]] mới bắt đầu nhận ra rằng Hitler đang đẩy Đức vào cuộc chiến mà hầu như chắc chắn Đức sẽ thua.
Dòng 13:
Popitz là người thông minh nhưng thiếu ổn định tư tưởng. Là một học giả tài ba về [[Hy Lạp]] cũng như là nhà kinh tế thành danh, ông gia nhập một nhóm trí thức gặp gỡ mỗi tuần để bàn luận về tâm lý học, sử học, nghệ thuật, khoa học, văn học; rồi theo thời gian tiến triển – hoặc thời gian không còn nữa – thành lập nên một trong những nhóm chống đối.
Schacht là con người của chủ nghĩa cơ hội, và Hassell nhận xét trong nhật ký của ông là Schacht
[[Ulrich von Hassell]] trở thành một cố vấn ngoại giao cho các nhà lãnh đạo chống đối. Là người có văn hóa, ông khinh rẻ cung cách thô lỗ của Quốc xã, nhưng vẫn phục vụ chế độ cho đến khi bị khai trừ trong cuộc cải tổ sâu rộng của Hitler ngày [[4 tháng 2]] năm [[1938]]. Cũng giống như nhiều người khác, có vẻ như phải đợi đến khi có cú sốc do bị Quốc xã cách chức ông mới nghĩ đến việc làm gì đấy để lật đổ họ. Một khi chuyện này xảy ra, con người nhạy cảm, thông minh, bứt rứt toàn tâm vào nhiệm vụ mới và cuối cùng hy sinh đời ông, chịu một cái chết dã man.
Dòng 48:
Vì muốn xoa dịu Hitler, Thủ tướng Anh [[Arthur Neville Chamberlain]] ủng hộ giải pháp Tiệp Khắc nhượng vùng [[Sudentenland]] cho Đức, nhưng cần đạt sự thỏa thuận của Pháp trước khi thúc đẩy thêm. Ông đi hội kiến với Hitler hai lần: tại Berchtesgaden ngày 15 tháng 9, 1938 và tại Godesberg ngày 22-23 [[tháng chín|tháng 9]], [[1938]].
Do những phản ứng bất lợi của [[Nam Tư]], [[Romania|Rumani]], Pháp, Hoa Kỳ, [[Thụy Điển]]... cùng sự thờ ơ của Ý, ngày [[27 tháng 9]] năm [[1938]], Hitler gửi cho Chamberlain một lá thư có ngôn từ được tính toán một cách tuyệt diệu để lay chuyển Chamberlain: Đức sẵn sàng đàm phán những chi tiết với Tiệp Khắc, sẵn sàng
Đối với vài tướng lĩnh và trên hết đối với Tướng Tham mưu trưởng Lục quân Halder, đã đến lúc thực hiện âm mưu nhằm lật đổ Hitler và tránh cho Tổ quốc lâm vào một cuộc chiến mà họ nghĩ Đức sẽ bại trận. Suốt [[tháng chín|tháng 9]], theo lời kể sau này của người sống sót, các nhân vật trong nhóm âm mưu luôn bận rộn. Erich Kordt, thư ký trưởng của Ribbentrop tại Bộ Ngoại giao, cũng là nhân vật tham dự quan trọng và sống sót sau chiến tranh. Tại Tòa án Nürnberg, ông soạn một bản ghi nhớ dài về những sự kiện trong tháng 9, 1938. Halder, Gisevius và Schacht đều kể lại về âm mưu này, nhưng mỗi người đều cung cấp chi tiết khó hiểu, và ở vài điểm còn mâu thuẫn với nhau. Cần nhớ rằng ban đầu cả ba đều phục vụ chế độ Quốc xã, vì thế sau chiến tranh cố chứng tỏ họ chống đối Hitler và yêu chuộng hòa bình.
Dòng 56:
Riêng Tướng von Witzbelen vẫn còn lưỡng lự vì ông nghĩ Anh và Pháp đã bí mật cho Hitler rảnh tay ở miền đông và vì thế sẽ không tham chiến vì Tiệp Khắc. Vài tướng lĩnh tin theo ức đoán này. Vào lúc ấy, họ chỉ muốn lật đổ Hitler nhằm tránh chiến tranh xảy ra. Nếu Anh và Pháp không can dự, chiến tranh sẽ không xảy ra, thì họ thấy không cần gì phải đảo chính.
Nhóm âm mưu càng thêm chán nản vì Erich Kordt nắm bắt được nội dung lá thư của Chamberlain giải thích cho Hitler là muốn gặp ông này để
Kordt nói:
Dòng 64:
Tuy nhiên, vào buổi tối [[15 tháng 9]], TS. Paul Schmidt, làm thông dịch viên độc nhất và nhân chứng độc nhất trong cuộc họp Hitler-Chamberlain và cũng nằm trong nhóm âm mưu, đưa tin là Hitler vẫn muốn đánh chiếm toàn nước Tiệp Khắc. Nguồn tin này làm cho tinh thần của nhóm âm mưu phấn chấn trở lại. Họ quyết định tiến hành theo kế hoạch.
Kordt cho biết trong ngày [[27 tháng 9]], nhóm âm mưu định ngày hành động là 29/9. Gisevius khai trước Tòa án Nürnberg rằng các tướng Halder và Witzleben quyết định hành động lập tức ngày 28/9 sau khi họ nhận được bản sao
Vào giờ phút cuối cùng này, tâm tư Tướng von Brauchitsch có thể nghi ngại. Theo Gisevius, Witzleben gọi điện cho Brauchitsch từ văn phòng của Halder, cho biết mọi việc đã sẵn sàng và xin ông đứng ra chỉ huy cuộc đảo chính. Nhưng vị Tư lệnh Lục quân vẫn lửng lơ. Ông cho Halder và Witzleben biết ông sẽ đến Phủ Thủ tướng để tự mình xem các tướng lĩnh có đánh giá tình hình đúng hay không. Gisevius kể rằng Witzleben vội trở về tổng hành dinh của mình. Ông phấn khích nói:
Ít phút trước thời hạn của tối hậu thư do Hitler đưa ra, 2 giờ chiều 28/9/1938, Đức gửi thư mời lãnh đạo các chính phủ Anh, Pháp và Ý đến gặp Hitler ở [[München]] vào lúc trưa ngày hôm sau để dàn xếp vấn đề Tiệp Khắc.
Dòng 78:
:''Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng chúng tôi sẽ thành công. Nhưng bây giờ Ông Chamberlain đi đến, và ngay lập tức tránh khỏi nguy cơ chiến tranh... Người ta chỉ có thể chờ đến một dịp khác...''
Câu hỏi:
Tướng Halder trả lời:
Dòng 94:
Đúng thế không? Hoặc đấy chỉ là cách để bào chữa khi đã thất bại?
Khi khai trước Tòa án Nürnberg, Halder giải thích rằng có ba điều kiện để một
:''Điều kiện thứ nhất là sự lãnh đạo rõ ràng và quyết đoán. Điều kiện thứ hai là quần chúng phải sẵn sàng chấp nhận ý tưởng cách mạng. Điều kiện thứ ba là chọn thời điểm cho đúng. Theo quan điểm của chúng tôi, điều kiện thứ nhất về sự lãnh đạo rõ ràng và quyết đoán đã đạt được. Chúng tôi nghĩ điều kiện thứ hai cũng hoàn tất, bởi vì... dân tộc Đức không muốn chiến tranh. Điều kiện thứ ba – chọn thời điểm cho đúng – cũng tốt bởi vì chúng tôi đã trông đợi trong vòng 48 giờ lệnh thực hiện hành động quân sự. Vì thế, chúng tôi tin chắc rằng chúng tôi sẽ thành công.''
Dòng 100:
:''Nhưng bây giờ, ông Chamberlain đi đến, và chỉ trong phút chốc hiểm họa chiến tranh đã được ngăn chặn.''
Người ta có thể nghi ngờ về việc đạt điều kiện thứ nhất. Lý do là, nếu có
Liệu Halder và Witzleben hẳn đã rốt cuộc hành động nếu Chamberlain không đến München hay không là câu hỏi sẽ không bao giờ được trả lời một cách chung thẩm. Xét qua thái độ lạ kỳ của các tướng lĩnh này khi họ muốn lật đổ Hitler chỉ nhằm tránh chiến tranh chứ không phải chấm dứt sự chuyên chế và tàn bạo, thì có lẽ họ đã hành động nếu không có hội nghị München. Người ta không có thông tin để biết âm mưu đã được tổ chức hoàn thiện như thế nào, các lực lượng đã sẵn sàng đến đâu để tiến công, và Halder và Witzleben đã tiến gần ra sao đến việc ra lệnh hành động. Chúng ta chỉ có lời khai của một số nhỏ người mà sau chiến tranh muốn chứng tỏ họ chống lại Quốc xã, và những gì họ nói và viết ra để tự bào chữa thường là mâu thuẫn và khó hiểu.
Dòng 110:
Trong nhiều tuần mùa hè năm 1939, nhóm âm mưu hành động tất bật, tuy chính xác với mục đích gì thì khó mà hiểu được. Họ đã đi Anh để cảnh báo Chamberlain, Halifax và ngay cả Churchill rằng Hitler trù định tấn công Ba Lan vào cuối tháng 8. Chính họ đã thấy rằng người Anh kể cả Chamberlain đã thay đổi chính kiến, và điều kiện mà họ đặt ra để lật đổ Hitler – là Anh và Pháp tuyên bố chống lại hành động quân sự mới của Quốc xã – đã được thực hiện. Thế thì, họ muốn gì thêm nữa? Qua tài liệu họ để lại, người ta vẫn không biết rõ và người ta có cảm tưởng là chính họ cũng không biết họ muốn gì. Dù là có thiện chí, họ hoang mang trầm trọng và tê liệt vì kém hiệu quả. Hitler đã hoàn toàn khống chế cả nước Đức – quân đội, Cộng sản, chính quyền và dân chúng – đến nỗi họ không thể nghĩ ra cách nào tháo gỡ hoặc làm lũng đoạn sự khống chế như thế.
Về phần tướng Halder, đang bận rộn chuẩn bị kế hoạch tấn công Ba Lan nên không còn nghĩ gì đến việc lật đổ Hitler. Trước Tòa án Nürnberg, ông được hỏi tại sao ông và nhóm chống chế độ Quốc xã không làm gì vào cuối tháng 8 và qua đấy cứu nước Đức khỏi thảm họa chiến tranh. Ông đáp:
Còn về dân Đức thì sao? Khi nghe Halder nói dân Đức chống chiến tranh, Đại úy Sam Harris của quân đội Mỹ, người thẩm vấn ông, hỏi:
Khi Adolf Hitler chuẩn bị ném nước Đức vào chiến tranh, không một ai trong nhóm âm mưu làm gì để ngăn chặn ông. Hiển nhiên việc này là khó khăn và có lẽ đến thời khắc muộn màng này là không thể được. Nhưng họ đã không cố gắng.
Thế là, chấm dứt những cố gắng của nhóm âm mưu nhằm ngăn chặn Hitler khởi động Thế chiến II, ngoại trừ nỗ lực vào phút chót của TS. Schacht, mà ông dựa vào đấy để biện hộ cho mình trước Tòa án Nürnberg. Vào tháng 8/1939 ông gửi thư cho Hitler, Göring và Ribbentrop – ở thời điểm gây cấn các nhà lãnh đạo phe chống đối chỉ biết viết thư và bản ghi nhớ – nhưng, ông
Cuối cùng TS. Schacht đã không gặp Brauchitsch! Canaris cảnh cáo nếu ông này đi gặp, vị Tư lệnh Lục quân
==
Gần cuối năm 1939, những người trong nhóm âm mưu nghĩ đã đến lúc nên hành động một lần nữa. Brauchitsch và Halder thấy có hai phương án: hoặc lật đổ Hitler hoặc tổ chức cuộc tấn công ở miền Tây mà họ nghĩ sẽ là thảm họa cho nước Đức. Những người âm mưu cả quân sự và dân sự thình lình hồi sức, thúc giục phương án thứ nhất.
Dòng 136:
Thời giờ đã cấp bách. Quân đội Đức dự trù tấn công qua [[Bỉ]] và [[Hà Lan]] vào ngày 12/11/1939. Phải tiến hành đảo chính trước ngày này. Như Hassell cảnh báo những người khác, không thể nào có nền hòa bình tốt đẹp sau khi Đức đã xâm lấn Bỉ.
Có nhiều lời giải thích tại sao kế tiếp không có gì xảy ra, và những giải thích này mâu thuẫn với nhau và lộn xộn. Tướng Halder giải thích trước Tòa án Nürnberg rằng
Nhưng Brauchitsch còn hèn yếu hơn Halder. Tướng Beck bảo Halder:
Dòng 150:
Brauchitsch không thể thuyết phục được Hitler. Khi vị tướng nói đến thời tiết xấu, Hitler trả lời xấu cho Đức thì cũng xấu cho địch. Cuối cùng, trong nỗi tuyệt vọng, Brauchitsch báo cáo rằng tinh thần binh sĩ ở mức thấp tương tự như trong thời gian 1917-1918, khi có tư tưởng chủ bại, bất tuân quân lệnh và ngay cả nổi loạn.
Nhật ký của Halder ghi rằng khi nghe thế, Hitler nổi giận. Ông muốn biết:
Brauchitsch khai trước Tòa án Nürnberg:
Đến đây là chấm dứt
== Âm mưu cuối năm 1939 ==
Dòng 168:
Đầu năm 1940, một lần nữa, những người âm mưu chống Hitler lại thuyết phục các tướng lĩnh nên lật đổ Hitler – lần này là để ngăn chặn cuộc tiến công lên miền bắc mà họ đã nghe phong phanh. Họ muốn Anh đảm bảo sẽ dàn hòa mà cho phép chế độ chống Quốc xã được giữ lại phần lớn lãnh thổ do Hitler mới chiếm được.
Dựa trên cương lĩnh này, Hassell đã vô cùng dũng cảm đi đến Thụy Sĩ để tham khảo với một người Anh mà ông ghi trong nhật ký là
Rồi Hassell phác thảo quan điểm của
Rồi Hassell trao cho Bryans một bản ghi nhớ đầy thuyết phục với những ý niệm cao quý về tương lai của thế giới
Bryans đồng ý rằng cần có hành động nhanh chóng và hứa sẽ trình bản ghi nhớ của Hassell cho Halifax. Hassell trở về Berlin để tường thuật lại với những người trong nhóm âm mưu. Dù vẫn hy vọng vào
Nhóm âm mưu xem Báo cáo X là quan trọng. Tướng Thomas đã trình cho Brauchitsch xem báo cáo này nhằm tác động vị Tư lệnh Lục quân khuyên Hitler không nên đánh miền Tây. Nhưng Brauchitsch không thích hành động như thế, mà còn dọa sẽ bắt giữ Thomas nếu ông này đưa vấn đề ra bàn lần nữa, mà ông cho biết đấy
Rồi Thomas lại trình Báo cáo X cho Halder với hy vọng ông này sẽ theo đấy mà hành động, nhưng chỉ hoài công. Như vị Tham mưu trưởng Lục quân đã bảo Goerdeler – người cũng đã cầu xin ông chủ trì – vào lúc này ông không thể phá bỏ lời tuyên thệ là người lính của Lãnh tụ. Ông biện luận rằng Anh và Pháp đã tuyên chiến với Đức, và nền hòa bình dựa trên sự dung hòa là điều không tưởng.
Dòng 186:
Cảm tưởng như thế là đáng ngờ. Khi xem qua nhật ký của Halder vào tuần lễ đầu của tháng 4/1940, người ta có cảm tưởng rằng vị Tham mưu trưởng có tinh thần phấn chấn trong khi đang tham khảo với các tư lệnh chiến trường và kiểm tra lần cuối cùng những kế hoạch cho cuộc hành quân lớn lao nhất và táo bạo nhất trong lịch sử của Đức. Trong nhật ký của ông không có ý tưởng nào chống đối chế độ hoặc băn khoăn với lương tâm. Dù ông có mối nghi ngại đối với việc tấn công [[Đan Mạch]] và [[Na Uy]], đấy chỉ là thuần túy dựa trên lý do quân sự. Không hề có chữ nào bày tỏ nỗi băn khoăn về đạo lý đối với hành động gây hấn của Quốc xã chống lại bốn quốc gia trung lập nhỏ mà Đức đã long trọng cam kết đảm bảo đường biên giới, trong khi ông lại đóng vai trò chủ đạo lập kế hoạch hành quân chống lại hai trong số bốn quốc gia ấy.
Thế là, chấm dứt nỗ lực cuối cùng của những
== Nhóm âm mưu hồi sinh ==
Dòng 196:
Dù mất ảo tưởng vì Hiến chương Đại Tây Dương, nhóm âm mưu vẫn thấy cần thiết phải loại trừ Hitler trong khi còn kịp đàm phán có lợi cho nền hòa bình cho một nước Đức lúc này vẫn còn chiếm nhiều phần đất của Châu Âu. Thời giờ đang cấp bách. Nhóm âm mưu nhất trí với nhau là chẳng bao lâu sẽ trở nên quá muộn. Khi cơ may thắng lợi trong cuộc chiến mất đi hoặc còn mong manh thì không còn có thể làm gì được nữa.
Trung tâm âm mưu trong Quân đội vào mùa hè này là tổng hành dinh của Tập đoàn quân Trung tâm của Thống chế [[Fedor von Bock]] đang tiến đến Moskva. Trung tướng [[Henning von Tresckow]] dưới quyền Bock là người cầm đầu, được hỗ trợ bởi [[Fabian von Schlabrendorff]], Bá tước [[Hans von Hardenberg]] và Bá tước [[Heinrich von Lehndorff]], cả hai đều thuộc dòng dõi có tiếng tăm. Một trong những nhiệm vụ tự họ đặt ra là làm công tác tư tưởng của vị Thống chế, nhưng không thành công. Dù chán ghét chủ nghĩa Quốc xã, Bock đã tiến thân nhiều dưới chế độ này và cũng vì tính khí rỗng tuếch và có tham vọng mà ông không muốn may rủi. Khi nhóm âm mưu vạch ra rằng Hitler đang dẫn nước Đức đến chỗ diệt vong, Bock lớn tiến:
Tresckow và các phụ tá thất vọng nhưng không nản chí. Họ quyết định tự hành động. Ngày 4/8/1941, Lãnh tụ đến thăm tổng hành dinh của Tập đoàn quân, họ lên kế hoạch bắt giữ ông khi ông đi từ sân bay đến tổng hành dinh. Nhưng họ đã quá nghiệp dư và không tính đến những phương pháp an ninh cho Lãnh tụ. Luôn có một lực lượng SS hùng hậu bao quanh và không sử dụng xe của quân đội khi đi từ sân bay đến – Hitler đã phái trước một đoàn xe để dùng cho chuyến đi – nhóm âm mưu không có cơ hội tiếp cận để ra tay. Thất bại này – hẳn cũng có những thất bại khác tương tự – dạy cho những người âm mưu trong quân đội vài bài học. Thứ nhất, đến gần Hitler không phải là việc dễ dàng; ông luôn được bảo vệ cẩn mật. Kế tiếp, bắt giữ ông không thể giải quyết vấn đề, vì các tướng lĩnh chủ chốt hoặc quá hèn nhát hoặc quá hoang mang về lời tuyên thệ trung thành với ông nên có thể không cho phép nhóm âm mưu hành động tiếp. Vào khoàng thời gian này, mùa thu 1941, vài sĩ quan Quân đội trẻ đành phải đi đến kết luận là giải pháp đơn giản nhất, có lẽ giải pháp duy nhất, là hạ sát Hitler. Lúc ấy, sau khi được giải thoát khỏi lời tuyên thệ, các tướng lĩnh e dè sẽ thuận theo chính quyền mới và mang đến sự ủng hộ của Quân đội.
Nhưng các chỉ huy của nhóm âm mưu chưa sẵn sàng tiến xa như thế. Họ định ra một kế hoạch ngu xuẩn gọi là
Lực lượng Dân quân có một triệu người nhưng chỉ là một tổ chức ô hợp gồm những tân binh qua huấn luyện sơ sài trước khi được điều đi chiến trường để thay thế cho số thương vong. Vài tướng lĩnh cao cấp ở mặt trận Liên Xô hoặc vùng chiếm đóng có thể thuận theo nhóm âm mưu nếu kế hoạch ban đầu thành công. Một người trong số này, đã can dự vào âm mưu của Halder nhằm bắt Hitler vào thời điêm Hội nghị München, xem như là chọn lựa đúng lý. Đấy là Thống chế von Witzleben, bây giờ là Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây. Giữa tháng 1/1942, nhóm âm mưu phái Hassell đi gặp Witzleben và Tướng [[Alexander von Falkenhausen]], chỉ huy quân Đức tại Bỉ, Hassell đang bị Gestapo theo dõi, nhưng sử dụng bình phong là chuyến đi diễn thuyết cho các sĩ quan Đức và viên chức địa phương về
Bị cho ra rìa tại Pháp trong khi các thống chế đồng sự đang chỉ huy những trận đánh quang vinh tại Liên Xô, Witzleben khao khát hành động. Ông bảo Hassel
thay thế. Ông này không có can đảm chống lại Hitler dù gần đây bị Hitler đối xử tệ hại. Thế là nhóm âm mưu thấy hy vọng chính yếu của họ trong Quân đội là một Thống chế không có quân. Chỉ có tướng mà không có quân thì không thể thành lập chế độ mới.
Dòng 241:
:''Xem chi tiết: [[Heinrich Himmler]] và [[Gestapo]].''
Các tướng lĩnh và sĩ quan cấp cao của Quân đội bị cáo buộc bị đưa ra trước Tòa án Danh dự Quân sự để bị tước quân tịch. Tòa án này không được phép nghe người sĩ quan tự biện hộ, mà chỉ hành động dựa trên
Việc thi hành án tử hình thường được thực hiện ngay ngày hôm sau theo cách thức lột trần tử tội cho đến eo, tròng vào cổ họ một thòng lọng bằng sợi dây dương cầm và buộc vào cái móc treo thịt ở phía trên đầu.
Tướng Friedrich Fromm không thoát án tử hình dù đã có động thái chống nhóm âm mưu. Himmler ra lệnh bắt giữ ông ngày hôm sau, đưa ông ra Tòa án Nhân dân vào tháng 2/1945 với tội danh
Cũng nhân dịp này, Hitler và Himmler xử lý luôn những người không trực tiếp tham gia vào vụ nổ bom ám sát nhưng bị nghi ngờ dính dáng ít nhiều đến phong trào chống đối. Lấy ví dụ những trường hợp này là Thống chế lừng danh [[Erwin Rommel]] bị bức tử, Bá tước [[Helmuth von Moltke]] cầm đầu Nhóm Kreisau (chỉ soạn chương trình cho nước Đức sau khi lật đổ Hitler nhưng không muốn ám sát Hitler) bị hành quyết, TS. Jens Peter Jessen (giáo sư kinh tế học tại Đại học Berlin) bị hành quyết, Tướng Halder, TS. Schacht và Thượng tướng [[Alexander von Falkenhausen]] (chỉ huy quân quản Bỉ và bắc Pháp) bị đưa vào trại tập trung cho đến khi được Đồng minh giải cứu lúc gần kết thúc chiến tranh.
|