Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hậu Chu Cung Đế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 33:
Năm 959 ông được phong ''Lương Vương''. Tháng 6 âm lịch cùng năm, Thế Tông mất trong một chiến dịch quân sự. Ngày Giáp Ngọ cùng tháng, ông kế nghiệp cha mình. Do khi lên ngôi ông mới 7 tuổi nên [[Phù Thái hậu]] phải đứng ra làm nhiếp chính, giao việc binh quyền cho [[Phạm Chất]] và [[Vương Phổ]]. Ông đặc biệt trọng dụng [[Tống Thái Tổ|Triệu Khuông Dận]].
 
Tháng giêng năm [[960]], hai châu Trấn, Định (nay là hai huyện Chính Định và Định thuộc tỉnh Hà Bắc) sai người cấp báo là [[Bắc Hán]] hợp quân với [[nhà Liêu|Liêu]] xâm phạm phương Nam. Phạm Chất sai Điện tiền Đô Điểm kiểm Triệu Khuông Dận đem Cấm quân lên phương Bắc. Đến Trần Kiều (đông bắc [[Khai Phong]]) thì quân lính phát động binh biến, sử gọi là [[Trần Kiều binh biến]], để tôn Triệu Khuông Dận làm Hoàng đế. Khuông Dận hồi kinh, Phạm Chất cùng bá quan văn võ bị ép phải bái kiến “Tân"Tân Thiên tử”tử". Triệu Khuông Dận lập ra [[nhà Tống]] và lên làm Hoàng đế, cải niên hiệu thành Kiến Long. Sài Tông Huấn bị phế truất và được [[Tống Thái Tổ]] phong làm Trịnh Vương. Nhà Hậu Chu diệt vong. Tổng cộng ông làm vua được khoảng 6 tháng.
 
Triệu Khuông Dận ban bố thánh chỉ ưu đãi mẹ con Cựu hoàng, ban cho miễn tử kim bài và cho con cháu họ Sài đời đời hưởng phú quý. Tuy nhiên, tới năm Kiến Long thứ ba (962) thì Sài Tông Huấn bị buộc phải chuyển tới Phòng Lăng (nay là huyện Phòng, tỉnh Hồ Bắc). Đến tháng 3 năm Khai Bảo thứ sáu (973), ông chết (có thuyết cho rằng ông bị sát hại). Tống Thái Tổ cho táng tại Thuận Lăng, ở bên cạnh Khánh Lăng của [[Hậu Chu Thế Tông]].
Dòng 49:
{{end box}}
== Tham khảo ==
{{tham khảo}}
* Mote F.W. (1999). Imperial China (900-1800). Nhà in Đại học Harvard, 13,14.
{{Vua thời Ngũ đại Thập quốc}}