Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Chu Ru”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n robot Thêm: ru:Чуру (народ) |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
{{Ethnic group|
|group=Người Chu Ru
Chu Ru là một trong những [[dân tộc]] ít người ở [[Lâm Đồng]]. Theo [[tổng điều tra dân số]] ngày [[1 tháng 4]] năm [[1989]], Chu Ru có khoảng trên l0.402 nhân khẩu chiếm 2.5% dân số toàn tỉnh. Đến 1 tháng 10 năm 1997 có 12.993 người. Đồng bào có mặt tại một số địa phương thuộc tỉnh Lâm Đồng và một số ít ở tỉnh [[Ninh Thuận]], [[Bình Thuận]].▼
|image=
|poptime=~15.000 (ước)
|popplace=[[Việt Nam]]: [[Lâm Đồng]]
|langs=tiếng Chu Ru, [[tiếng Việt]]
|related=
}}
▲'''Chu Ru''' là tên gọi của một trong những [[dân tộc]] ít người ở [[Lâm Đồng]]. Theo [[tổng điều tra dân số]] ngày [[1 tháng 4]] năm [[
==Ngôn ngữ, chữ viết==
Người Chu Ru đa số nói
Trước đây người Chu Ru không có [[chữ viết]] cho tiếng nói của mình. [[Thời Pháp thuộc]], đã lưu hành một loại chữ viết do phiên âm tiếng nói của dân tộc này. Do địa bàn cư trú tương đối thuận tiện cho việc tiếp xúc với các dân tộc
Sau ngày [[30 tháng 4]] năm [[1975]], vùng dân tộc Chu Ru là một trong những vùng có phong trào thanh toán nạn [[mù chữ
Ngôn ngữ Chu Ru và Chăm, đều thuộc nhóm ngôn ngữ
==Kinh tế==
Người Chu Ru là một dân tộc đã [[định canh]] [[định cư]] và làm ruộng từ lâu đời. Nghề [[trồng trọt]] chiếm vị trí hàng đầu trong đời sống kinh tế và [[lúa]] là cây lương thực chủ yếu. Ngoài ra
Ruộng (hama) trước đây thường chỉ làm một mùa, và có thể tạm chia làm hai loại: ruộng sâu hoặc ruộng sình (hama-gluh) và ruộng khô (hanha- khác). Do tính chất và điều kiện địa lý của từng loại ruộng ở từng vùng, có những đặc điểm khác nhau nên kỹ thuật canh tác cũng có những nét riêng.
Hàng 18 ⟶ 27:
Tuy nhiên lối canh tác cổ truyền của người Chu Ru cũng có nhiều kinh nghiệm nhất là về làm thủy lợi nhỏ, và điều tiết lượng nước trong từng thời kỳ sinh trưởng của cây lúa...
Để phụ vào một vụ lúa nước,
Kết hợp với kinh tế sản xuất, săn bắn (amal) là một hoạt động thường xuyên trong đời sống người Chu Ru tuy nó không còn là một nguồn sống quan trọng. Săn bắn thường kết hợp chặt chẽ với khâu sản xuất nông nghiệp để chống các loại thú rừng phá hoại mùa màng. Nó không những là một nguồn lợi, nguồn cung cấp thực phẩm mà còn là một thú vui của mọi thành viên nam giới trong làng. Tuy chưa có những người chuyên sống về nghề săn bắn, nhưng người đàn ông nào cũng biết đi săn, gia đình nào cũng có lao (tă) và nỏ (sơ ráo). Họ cũng là những người có nhiều kinh nghiệm làm tên thuốc độc. Trước đây, nhiều làng thường tổ chức săn tập thể. Cùng với việc săn bắn, đồng bào còn làm nhiều loại bẫy khác nhau để bắt cầy, cáo, gà rừng...
Hàng 30 ⟶ 39:
Hái lượm vẫn còn là một nguồn cung cấp thức ăn hàng ngày cho đồng bào. Người ta thường hái các loại rau rừng, măng và một số hoa quả dại, đào các loại thân củ như củ chụp, củ mài để ăn thay cơm hoặc kiếm các loại lâm sản như: mộc nhĩ, nấm hương, mật ong... Những thứ đó, một phần để dùng, nhưng chủ yếu là bán hoặc trao đổi với các dân tộc khác.
Những sản phẩm thủ công chủ yếu như
Nghề dệt ở đây không phát triển, vì vậy hầu hết mọi bộ đồ trong y phục cổ truyền như: áo, khố, váy..., đều phải mua hoặc trao đổi với các dân tộc láng giềng như người Chăm, Cơ Ho, Mạ...
Hàng 36 ⟶ 45:
Nhìn chung, nền kinh tế cổ truyền của người Chu ru là một nền kinh tế mang tính chất tự cấp, tự túc, bó hẹp trong từng gia đình, dòng họ và làng buôn truyền thống.
==Văn hóa-xã hội==
Xã hội cổ truyền Chu ru dựa trên cơ sở làng (plei). Phạm vi của làng là một khoảng đất rộng ba, bốn kilômét vuông, gồm: thổ cư, đất trồng trọt, các công trình thủy lợi cùng với rừng núi, sông suối..., có ranh giới tự nhiên như con sông, dòng suối hoặc quả đồi, do các chủ làng (pô plei nay pô plơi) quy ước với nhau và được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Rừng, núi, sông, suối thuộc quyền sở hữu công cộng của làng, ai cũng có quyền săn bắn, đánh cá trong khu vực đó. Nhưng thổ cư, ruộng đất ở đây đã dần dần chuyển thành tài sản tư hữu của từng dòng họ, gia đình lớn hay gia đình nhỏ. Từ lâu đã có một thể thức cổ truyền về việc chuyển nhượng quyền sở hữu ruộng đất thay cho khế ước hay giấy tờ hợp pháp. Những người dân làng thuộc hai thế hệ được họp tại thửa ruộng bán, mà thành phần quan trọng là trẻ nhỏ, vì chúng là những nhân chứng trực tiếp của việc chuyển nhượng đất đai đó trong tương lai. Người đứng ra mua đất phải chịu mọi phí tổn của buổi lễ. Chi phí đó gồm các khoản chính như: rượu cần để thết đãi người lớn và thịt gà làm quà cho các em. Ông ta còn phải cung cấp một con vật để tế lễ sau khi đã trả tiền. Tich trả theo luật lệ cổ truyền ở đây là trâu, bò, chiêng, ché... là những vật ngang giá. Một tảng đá tương đối lớn, được phết máu con vật hiến sinh được chôn ngay tại bờ ruộng đã bàn...
Về mặt xã hội, làng Chu
Chủ làng, do tất cả thành viên lựa chọn trong số những người đàn ông cao tuổi nhất của làng (các tha plơi). Tuy chưa phải là phổ thông đầu phiếu, song ông ta là người được đông đảo thành viên trong làng tín nhiệm.
Hàng 60 ⟶ 70:
Dưới làng, là những cộng đồng huyết thống như: dòng họ, gia đình lớn và gia đình nhỏ.
Trong xã hội cổ truyền của người Chu
Đứng đầu gia đình lớn là một người đàn ông cao tuổi nhất, thông thường là chồng người đàn bà thuộc thế hệ trên. Trong thực tế, ông chủ gia đình lớn là người thừa hành những ý kiến của người vợ và những người anh em trai của bà ta (miăk). Tuy sống trong gia đình phía vợ, song người cậu, vẫn đóng vai trò quyết định trong những công việc hệ trọng trong gia đình em gái như: phân chia tài sản, quyết định việc hôn nhân của các cháu, mua bán, chuyển nhượng ruộng đất và mọi tài sản khác.
Người Chu Ru, vốn cư trú trên một lãnh thổ tương đối ổn định, nên từ trước đến nay, thường có quan hệ hôn nhân trong nội bộ dân tộc. Tuy nhiên, họ vẫn có ít nhiều quan hệ hôn nhân với người Cơ Ho và người
Việc tiến hành các nghi lễ nông nghiệp cổ truyền, như cúng thần đập nước (Bơ mung), thần mương nước (Rơ bông), thần lúa khi gieo hạt (Mơ nhum tô ốt đoồng hay khâu doông), ăn mừng lúa mới (ngay
Cũng vào tháng hai hàng năm, người Chu
Ngoài tín ngưỡng truyền thống kể trên, hiện nay, [[Kitô giáo|Thiên chúa giáo]] và [[Tin Lành|đạo Tin
Người Chu Ru có một vốn ca dao, tục ngữ phong phú, trong đó nổi bật là những câu ca tụng chế độ mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội cổ truyền. Nhiều truyện cổ phản ánh cuộc đấu tranh bất khuất của người lao động với thiên nhiên và xã hội để dành lấy cuộc sống hạnh phúc. Đồng bào Chu Ru còn lưu truyền một số trường ca mà các già làng thường kể bên bếp lửa sàn cho con cháu nghe, suốt đêm này qua đêm khác...
Hàng 84 ⟶ 94:
Bên cạnh một số phong tục tập quán lạc hậu, như dùng bùa chú, cúng bái để trị bệnh, người Chu Ru hái lá, vỏ, quả một số cây làm những vị thuốc nam trong dân gian để chữa bệnh có công hiệu theo y học cổ truyền.
==Ghi chú==
{{reflist}}
{{Các dân tộc Việt Nam}}
|