Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Duke Ellington”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: {{cite web → {{chú thích web, {{reflist → {{tham khảo (2), . → . (2) using AWB
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 20:
Sinh ra tại [[Washington, D.C.]], ông sau đó định cư tại [[New York]] vào giữa thập niên 20, bắt đầu được quan tâm sau khi trở thành thủ lĩnh dàn nhạc ở hộp đêm mang tên [[Cotton Club]]. Tới những năm 30, họ đã đi lưu diễn vòng quanh châu Âu. Một số thành viên từ ban nhạc của Ellington như [[Johnny Hodges]] vẫn được coi, cho tới tận ngày nay, là một trong những nghệ sĩ nhạc jazz kiệt xuất nhất, nhưng điều quan trọng hơn chính Ellington là người đã gộp họ lại thành ban nhạc jazz vĩ đại nhất lịch sử. Nhiều thành viên của nhóm vẫn còn hoạt động sau nhiều thập kỷ. Là một người thành thạo về kỹ thuật thu âm trên [[đĩa than]] 78 rpm, Ellington thường sáng tác những giai điệu riêng biệt cho từng nghệ sĩ, chẳng hạn "Jeep's Blues" cho Hodges, "Concerto for Cootie" cho [[Cottie Williams]] sau này phần lời được phổ nhạc thành ca khúc "[[Do Nothing Till You Hear from Me]]" của Bob Russell.
 
Thường xuyên cộng tác với số lượng lớn nghệ sĩ, số lượng sáng tác của Ellington lên tới hàng ngàn, hầu hết thuộc về nhạc jazz, trong đó nhiều tác phẩm đã được coi là nguyên mẫu của thể loại này. Ông cũng thu âm cả những sáng tác bởi những thành viên trong nhóm mình, như "Caravan" và "Perdido" của [[Juan Tizol]], đưa Spanish tinge{{#tag:ref|"Spanish tinge" là cụm từ nói về giai điệu của những người Latin gốc Phi theo nhịp chung 4/4, trở nên phổ biến sau này trong nhạc [[pop]] cũng như nhạc [[jazz]]. Khái niệm này được nghĩ ra bởi [[Jelly Roll Morton]], với đoạn trích dẫn nổi tiếng được lưu trữ trong [[Thư viện Quốc hội Mỹ]]: ''"Chúng ta đang có những người Tây Ban Nha tại đây. Tôi đã cố chơi cho họ thứ nhịp đúng, song cá nhân tôi thấy họ không thể nào trở nên tốt hơn được về nhịp. Hãy thử nghe giai điệu bài "[[La Paloma]]" mà tôi thử chuyển thể sang kiểu [[New Orleans]]. Ban đầu bạn thấy nó vẫn giống nhau. Nhưng điều khác biệt lại là ở chỗ khác – chính là các nốt nhấn lệch, điều tạo nên sự đối lập như việc chuyển từ đỏ sang lam vậy. Một trong những sáng tác mới nhất của tôi, "New Orleans Blues", có thể giúp bạn nhận diện rõ ràng "Spanish tinge". Nếu bạn không thể nào hiểu cách đưa tính Tây Ban Nha vào trong các sáng tác của mình thì bạn không thể nào biết được cách tạo ra được thứ giai điệu đúng đắn của nhạc jazz."'' Theo Morton, anh nhận ra điều này khi nghe lưu trữ của [[Alan Lomax]] tại Thư viện Quốc hội Mỹ vào năm 1938<ref>Morton, “Jelly"Jelly Roll”Roll" (1938: Library of Congress Recording) ''The Complete Recordings By Alan Lomax''.</ref>. Ở đây, tính Latin trong giai điệu được nhấn mạnh qua các "[[habanera]]" mà người ta có thể gọi là congo<ref>Manuel, Peter (2009: 69). ''Creolizing Contradance in the Caribbean''. Philadelphia: Temple University Press.</ref>, tango-congo<ref>Acosta, Leonardo (2003: 5). ''Cubano Be Cubano Bop; One Hundred Years of Jazz in Cuba''. Washington D.C.: Smithsonian Books.</ref>, hay tango<ref>Mauleón (1999: 4)</ref>.|group="gc"}} thành nền tảng của mọi nhóm nhạc [[Big band|big band jazz]].
 
Kể từ năm 1941, Ellington bắt đầu cộng tác với nhạc sĩ [[Billy Strayhorn]] mà ông sau này gọi là "người bạn sáng tác và hòa âm"<ref>Hajdu, David (1996), ''Lush Life: A Biography of Billy Strayhorn'', New York: Farrar, Straus & Giroux, ISBN 978-0-86547-512-0, p.170.</ref>. Cùng Strayhorn, ông đã viết nên những tác phẩm lớn cùng vô số những giai điệu ngắn. Trong Festival nhạc jazz Newport ở đảo Rhode tháng 7 năm 1956, ông được tôn vinh vì sự nghiệp của mình và quyết định cùng ban nhạc thực hiện tour diễn vòng quanh thế giới. Ellington chủ yếu thu âm với các hãng đĩa của Mỹ, ngoài ra còn tham gia đóng phim, viết nhạc phim và cả sáng tác nhạc kịch.