Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trung quán tông”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Trung quán và Phật giáo Tây Tạng: chính tả, replaced: nẩy → nảy using AWB |
n clean up, General fixes using AWB |
||
Dòng 1:
'''Trung quán tông''' (zh. 中觀宗, sa. ''mādhyamika'', bo. ''dbu ma pa'' དབུ་མ་པ་), còn được gọi là '''Trung luận tông''' (zh. 中論宗), là một trường phái [[Đại thừa]], được [[Long Thụ]] (zh. 龍樹, sa. ''nāgārjuna'') và [[Thánh Thiên]] (zh. 聖天, sa. ''āryadeva'') thành lập. Tông này có ảnh hưởng lớn tại Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản và Việt Nam. Đại diện xuất sắc của phái này, bên cạnh hai vị sáng lập, là [[Phật Hộ]] (thế kỉ 5), [[Thanh Biện]] (thế kỉ 6), [[Nguyệt Xứng]] (thế kỉ 8), [[Tịch Thiên]] (thế kỉ 7-8), [[Tịch Hộ]] (thế kỉ 8) và [[Kamalaśīla|Liên Hoa Giới]] (thế kỉ 8). Những Đại Luận sư này có ảnh hưởng rất lớn trong việc phát triển đạo Phật tại [[Tây Tạng]].
Tên gọi của tông này dựa trên quan điểm
<div class="toccolours">
'''Nguyên văn tiếng Phạn'''
Dòng 13:
Vì tất cả mọi sự đều dựa lên nhau mà thành ([[duyên khởi]]), cho nên chúng không tồn tại độc lập, không có [[tự ngã]] (zh. 我, sa. ''ātman''), [[tự tính]] (zh. 自性, sa. ''svabhāva''), trống rỗng (sa. ''śūnya''). Cái trống rỗng, cái [[không tính|tính Không]] (sa. ''śūnyatā'') trong Trung quán tông có một ý nghĩa hai mặt: một mặt, [[không tính|tính Không]] không có một tự ngã nào; mặt khác, [[không tính|tính Không]] đồng nghĩa với sự [[giải thoát]], vì tính Không chính là bản thể tuyệt đối. Chứng ngộ được tính Không tức là giải thoát. Muốn đạt được điều này, người ta phải thoát khỏi tâm thức thị phi. Đối với Trung quán tông thì tính Không là thể tính cuối cùng, đồng nghĩa với [[Pháp thân]] (sa. ''dharmakāya''). Vì quan điểm Không toàn triệt nói trên mà Trung quán tông có khi được gọi là Không tông (sa. ''śūnyavādin'').
Muốn đạt được bản thể tuyệt đối, người ta phải vượt qua chân lí tương đối. Vì vậy phái này cũng có quan điểm riêng về
Các tác phẩm của Long Thụ còn giúp phát triển ngành [[Nhân minh học]] (zh. 因明學, sa. ''hetuvidyā''). Ngành này cũng chịu ảnh hưởng của trường phái lớn thứ hai của Đại thừa Ấn Độ là [[Duy thức tông]] (sa. ''vijñānavādin'', ''yogācārin'') và ngược lại ngành Nhân minh học cũng mài dũa cho Trung quán tông những lí luận sắc bén. Trong lĩnh vực Nhân minh, Duy thức tông cũng góp phần quan trọng, trả lời những câu hỏi mà Trung quán tông không có ý kiến, không đề cập đến như cách phát sinh của thế giới hiện tượng.
==Sự phát triển==
Sau Thánh Thiên thì Phật Hộ (zh. 佛護, sa. ''buddhapālita'') là người đại diện xuất sắc của Trung quán tông. Sư có viết bài luận về (''Căn bản'') ''[[Trung quán luận tụng]]'' (sa. [''mūla-''] ''madhyamaka-kārikā''), tên gọi khác của ''Trung luận'' của Long Thụ. Trong bộ này, với tên ''Phật Hộ căn bản trung quán luận thích'' (sa. ''buddhapālita-mūlamadhyamaka-vṛtti''), Sư đả phá quan điểm của những kẻ đối nghịch và những kết luận (sa. ''prasaṅga'') sai trái của họ, có thể gọi là
Thanh Biện (zh. 清辯, sa. ''bhāvaviveka'') áp dụng luận lí học của Duy thức tông và Nhân minh học của [[Trần-na]] (zh. 陳那, sa. ''dignāga'') trong thuyết Trung luận của mình. Sư hay nhấn mạnh đến
Nguyệt Xứng (zh. 月稱, sa. ''candrakīrti'') thì cố gắng trở về với giáo lí nguyên thuỷ của Long Thụ. Sư tự xem mình là người thừa kế Phật Hộ và từ chối quan điểm của Thanh Biện, từ chối đưa ra bất cứ một hệ luận nào vì cho rằng Trung quán tông đích thật không chủ trương một quan điểm nào cả. Sư soạn một bài luận giải tác phẩm ''Trung quán luận'' của Long Thụ và trong đây, sư chứng minh hệ thống của Phật Hộ là đúng. Với xác nhận này, sư phản ứng những quan điểm được Thanh Biện đề ra để bài xích một vài điểm trong hệ thống của Phật Hộ. Sư nêu rõ là một người có quan điểm trung dung không nên đề ra những luận tam đoạn (tam đoạn luận pháp 三段論法, ''syllogism'') độc lập mà trong đó, cả ba chi của một luận điểm tự lập, tự khởi.
Dòng 38:
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
'''Tài liệu chủ yếu'''
|