Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Pháp Xứng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: Alphama Tool
Dòng 8:
Sư sinh ra trong một gia đình theo đạo [[Bà-la-môn]] (sa. ''brāhmaṇa'') và đã tinh thông tất cả những môn học thời đó lúc còn trẻ. Sau đó, Sư bắt đầu nghiên cứu, tu học Phật pháp với tư cách của một [[Cư sĩ]]. Phật học lôi cuốn Sư đến mức Sư bỏ đạo Bà-la-môn, đến viện [[Na-lan-đà]] thụ giới cụ túc và tham học với Hộ Pháp. Các tác phẩm của [[Trần-na]] (sa. ''dignāga'', ''diṅnāga'') tại viện Phật học này chính là yếu tố ngộ đạo của Sư. Sau khi kết thúc giai đoạn tu tập, Sư bắt đầu công việc hoằng hoá, xiển dương đạo Phật, viết nhiều luận giải, đại diện Phật giáo tham dự nhiều cuộc tranh luận. Trong những cuộc tranh luận này, Sư dùng Nhân minh học để hàng phục đối phương và trong lĩnh vực này, truyền thống Tây Tạng đặt Sư lên một địa vị cao hơn cả Trần-na. Trong những năm cuối đời mình, Sư từ bỏ việc chu du đây đó và lui về một trụ trì một Tinh xá tại Orissa (bây giờ là Kālinga) và mất tại đây.
 
Sử sách miêu tả Sư là một người tự lực cánh sinh, căm ghét tính phàm tục của dân dã và các tăng chúng dối trá, nhưng Sư cũng được tả là một Đại sư thiếu khiêm tốn, nếu không nói là kiêu mạn. Nhà sử học nổi tiếng của Tây Tạng là [[Bố-đốn]] (bo. ''bu ston'' བུ་སྟོན་) có ghi lại một sự việc sau: Sau khi Sư viết và trình bày ''[[Lượng thích luận]]'' (sa. ''pramāṇavarttika-kārikā'') và ''-chú'' (-''vṛtti''), nhiều người không hiểu nổi. Những người hiểu được thì trở nên ganh tị, tuyên bố rằng, tác phẩm này không đúng. Họ lấy dây buộc bài luận này vào lưng một con chó và cho nó chạy rong ngoài đường, với kết quả là những trang (lá bối) của luận này bay tung toé khắp nơi. Thấy cảnh tượng này, Sư tuyên bố rằng: “con"con chó sẽ chạy đến khắp nơi và truyền bá tác phẩm này toàn thế giới”giới".
 
Những lời sau đây của Sư còn được lưu lại:
:“Loài"Loài người có những đặc tính, tư tưởng rất phàm; họ không hướng vào nội tâm để tìm lấy cái tinh hoa, cốt tuỷ. Không chú ý đến những lời dạy của [[Thiện tri thức]] đối với họ chưa đủ, họ còn phát lòng thù ghét và ganh tị. Vì vậy mà ta cũng chẳng viết cho họ. Tuy thế, tâm của ta đã có được niềm an vui khi viết tác phẩm này bởi vì qua nó, lòng quý trọng thiền định thâm sâu vượt qua mọi ngôn ngữ của ta đã được bù đáp."
 
Sư viết nhiều luận giải nhưng quý giá hơn hết là các tác phẩm về Nhân minh học Phật giáo. Trong lĩnh vực này, truyền thống Tây Tạng có giữ lại bảy tác phẩm của Sư, được gọi chung là [[Pháp Xứng nhân minh thất bộ]], là luận lí học nền tảng của Phật giáo Tây Tạng (tất cả đều chưa được dịch ra Hán ngữ).
Dòng 22:
#''Nhân luận nhất đích luận'' (zh. 因論一滴論, sa. ''hetubindu-nāma-prakaraṇa'', bo. གཏན་ཚིགས་ཀྱི་ཐིགས་པ་ཞེས་བྱ་བའི་རབ་ཏུ་བྱེད་པ་), bản Tạng ngữ có, bản Phạn ngữ mới được tìm thấy. Bộ luận này được chia làm 3 phần, giảng giải về ba đoạn của suy luận;
#''Luận nghị chính lí luận'' (zh. 論議正理論, sa. ''vādanyāya-nāma-prakaraṇa'', bo. རྩོད་པའི་རིགས་པ་ཞེས་བྱ་བའི་རབ་ཏུ་བྱེད་པ་), chỉ còn bản Tạng ngữ, nói về cách tranh luận với địch thủ;
#''Thành tha tướng thuộc luận'' (zh. 成他相屬論, sa. ''saṃtānāntarasiddhi-nāma-prakaraṇa'', bo. རྒྱུད་གཞན་གྲུབ་པ་ཞེས་བྱ་བའི་རབ་ཏུ་བྱེད་པ་'), triết luận chống đối quan niệm Duy ngã và nói về “sự"sự thật”thật" của ý nghĩ người khác.
 
==Pháp Xứng thuộc Thượng Toạ bộ==