Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đàng Ngoài”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n replaced: {{fact}} → {{fact|date=7-2014}}
Dòng 1:
[[Tập tin:VietNam1771.jpg|nhỏ|phải|Bản đồ '''Đàng Ngoài''' (Ton Kin), cùng [[Đàng Trong]] (Cochin Chin) và [[Lào]], năm 1771.]]
[[Tập tin:1866 Perthes Map of East India.jpg|phải|nhỏ|Bản đồ vẽ [[Vân Nam]], [[Ai Lao]] (phía dưới) và Miền Bắc Việt Nam (góc phải phía dưới) năm 1866]]
'''Đàng Ngoài''' ([[chữ Hán]]:塘外) hay '''Bắc Hà''' (北河), là tên gọi bắt nguồn từ thời [[Trịnh-Nguyễn phân tranh]] vào [[thế kỷ 17]] đến cuối [[thế kỷ 18]], chỉ phần lãnh thổ nước [[Đại Việt]] từ [[sông Gianh]] (tỉnh [[Quảng Bình]]) trở ra Bắc. Do đặc điểm cả hai vùng lãnh thổ tuy trên thực tế thuộc hai chính quyền khác nhau, nhưng về danh nghĩa vẫn cùng một quốc gia [[Đại Việt]]. Tên gọi Đàng Ngoài được dùng để chỉ vùng kiểm soát bởi [[Nhà Hậu Lê|vua Lê]] - [[chúa Trịnh]], vốn nằm gần [[Trung Quốc]] hơn so với Đàng Trong hơn nên mới có tên gọi này.{{fact|date=7-2014}} Kinh đô Đàng Ngoài là [[Thăng Long]] (còn gọi là Đông Kinh, Kinh Kỳ hay Kẻ Chợ).
 
==Lịch sử hình thành==
{{Chính|Trịnh-Nguyễn phân tranh}}
[[Tập tin:Vietnam 1760.jpg|nhỏ|phải|250px|Bản đồ Việt Nam khoảng năm [[1760]], vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam. Đàng Ngoài được chú là ''Gan Nam ou Ton Kin'' (An Nam hoặc Đông Kinh).]]
Năm 1527, [[Mạc Đăng Dung]] phế bỏ triều Lê lập ra [[triều Mạc]] (1527 - 1592). Một tướng của nhà Lê là [[Nguyễn Kim]] tập hợp lực lượng chống Mạc ở [[Thanh Hoá]] nhằm khôi phục triều Lê; năm 1533, lập [[Lê Trang Tông]] lên làm vua. Năm 1545, Nguyễn Kim chết, binh quyền giao cho con rể là [[Trịnh Kiểm]]. Năm 1592, con Trịnh Kiểm là [[Trịnh Tùng]] đánh bại triều Mạc, chiếm lại kinh thành [[Thăng Long]], cùng con cháu họ Trịnh kế tục xưng vương, nhân dân thường gọi là [[chúa Trịnh]]. Thực quyền nằm trong tay chúa Trịnh, còn vua Lê chỉ là danh nghĩa. Phạm vi thống trị của vua Lê - chúa Trịnh chỉ còn từ [[sông Gianh]] trở ra Bắc vì phía nam do [[Nguyễn Hoàng]], con trai của Nguyễn Kim, và con cháu họ Nguyễn chiếm giữ, nhân dân cũng gọi là [[chúa Nguyễn]].
 
Hai bên Trịnh-Nguyễn thường xuyên giao chiến, trong gần nửa thế kỷ từ 1627 đến 1672, hai bên [[Trịnh-Nguyễn phân tranh|đánh nhau 7 lần]] mà không có kết quả. Hai họ Trịnh, Nguyễn phải ngừng chiến, lấy [[sông Gianh]] giới tuyến hai miền, phía bắc sông Gianh thuộc quyền vua Lê - chúa Trịnh gọi là '''Đàng Ngoài''' hay '''Bắc Hà''' (có kinh đô là Đông Kinh nên người phương Tây gọi là ''Tonquin'' hay ''Tonkin''), phía nam sông Gianh thuộc chúa Nguyễn gọi là [[Đàng Trong]] hay Nam Hà.
Dòng 37:
Các chúa Trịnh cho duy trì hệ thống trường học từ trung ương đến địa phương vốn có từ thời Lê Sơ. Sang đầu [[thế kỷ 18]], triều đình chú trọng hơn đến việc hỗ trợ vật chất cho trường học các địa phương. Năm 1723, triều đình ban hành quy định cấp ruộng cho các trường học, gọi là học điền theo các mức: trường Quốc học 60 mẫu, trường Hương học 16 - 20 mẫu tùy vào quy mô từ nhỏ đến lớn. Hoa lợi từ ruộng được mang chi dùng vào việc đèn dầu trong học tập.
 
Năm 1595 khi mới trở về [[Thăng Long]], nhà Lê trung hưng tổ chức kỳ thi Hội cho các cống sĩ ở bờ sông Nhị Hà và sau đó [[thi Đình]], lấy đỗ Tiến sĩ xuất thân và [[Đồng tiến sĩ xuất thân]].
 
Sang [[thế kỷ 17]], thể lệ thi cử được chỉnh đốn quy củ hơn. Tuy nhiên, theo đánh giá của [[Lịch triều hiến chương loại chí]], việc thi cử thời Lê trung hưng không còn giữ được sự nghiêm túc như thời [[Lê Thánh Tông]]<ref name="VSH571">Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 571</ref>.
Dòng 47:
 
===Nông nghiệp===
Kể từ khi đánh bại [[nhà Mạc]], làm chủ vùng Bắc bộ, chính quyền Lê-Trịnh đã có nhiều cố gắng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất nông nghiệp. Đối với việc thủy lợi, triều đình Lê-Trịnh cũng quan tâm. Khi thời tiết hạn hán nặng, triều đình cử quan xuống các đạo xem xét và sai làm xe tát nước để chống hạn. Việc tuần tra, sửa chữa đê điều cũng thực hiện thường xuyên<ref>Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 184</ref>.
 
Vì thiếu đất nên mỗi người chỉ được một miếng đất nhỏ, người nông dân phải xen canh tăng vụ, tận dụng tối đa mảnh đất, mỗi năm thường thu hoạch 2-3 vụ. Kỹ thuật sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng đạt trình độ khá cao. Phương pháp cày cấy chủ yếu dựa vào sức người, nông cụ giản đơn như liềm, cuốc, cày, bừa, hái<ref name="VSH186">Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 186</ref>.
 
Do chính sách khuyến nông và sức lao động chăm chỉ của người dân, đến đầu thế kỷ 18, nông nghiệp Đàng Ngoài có những tiến bộ đáng kể. Những năm không gặp phải thiên tai, lụt lội, nhiều năm được mùa<ref name="VSH186"/>.
 
=== Thủ công nghiệp===
Ngoài những nghề truyền thống nhằm phục vụ đời sống sinh hoạt như thợ đá, thợ sơn, thợ mộc, thợ rèn, thợ nề... như trước, còn có những ngành nghề phục vụ mục đích quân sự, chính trị mới như đóng tàu, đúc súng đạn. Đàng Ngoài có tài nguyên phong phú, tập trung chủ yếu ở vùng trung du phía bắc, gần biên giới với [[Trung Quốc]].
 
Do ảnh hưởng của nội chiến kéo dài, sang [[thế kỷ 18]] việc khai thác mỏ mới được xúc tiến mạnh và quản lý chặt chẽ. Đồng thời, triều đình kiểm soát nghiêm việc mua bán các loại khoáng sản, nhất là [[đồng]], [[chì]] và [[thiếc]], những [[kim loại]] cần cho việc chế tạo vũ khí. Phương thức khai thác mỏ thời kỳ này vẫn mang tính thủ công: quặng đào lên bằng công cụ thô sơ rồi đãi và nấu trong lò nổi thô sơ<ref name="VSH221">Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 221</ref>.
 
=== Thương mại ===
Kinh tế hàng hoá phát triển khá mạnh trong [[thế kỉ 17]], nhiều đô thị phồn thịnh, tiêu biểu là [[Thăng Long]] (Hà Nội) và [[Phố Hiến]] (Hưng Yên), quan hệ buôn bán với nước ngoài được mở rộng. Chợ là trung tâm [[kinh tế]] của [[nông thôn]], là nơi trao đổi hàng hóa của một xã hay một làng. Tại đây người nông dân và thợ thủ công mang sản phẩm mình sản xuất được như lương thực, thực phẩm, công cụ lao động, đồ dùng gia đình… ra chợ để mua bán, trao đổi. Dù bị các [[chúa Trịnh]] và [[chúa Nguyễn]] ngăn cấm, giữa [[Đàng Trong]] và Đàng Ngoài vẫn có luồng buôn bán trao đổi không chính thức<ref>Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 231</ref>.
 
Khác với thời Lê Sơ thực hiện chính sách đóng cửa đối với [[ngoại thương]], các [[chúa Trịnh]] thực thi chính sách mở cửa với nước ngoài. Ngoài những đối tác truyền thống từ [[phương Đông]] như [[Trung Quốc]], [[Nhật Bản]], thời kỳ này đã có thêm các đối tác từ [[phương Tây]] như [[Pháp]], [[Anh]], [[Bồ Đào Nha]], [[Hà Lan]].
Dòng 71:
Năm 1786, sau khi đánh bật chúa [[Nguyễn Ánh]] ra khỏi [[Đại Việt]], Tây Sơn tiến ra bắc đánh Trịnh với danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh" theo đề nghị của Nguyễn Hữu Chỉnh. Quân Trịnh lâu ngày không chiến đấu, chủ tướng trấn thủ [[Phú Xuân]] là Phạm Ngô Cầu không chú trọng việc binh nên thành Phú Xuân nhanh chóng thất thủ<ref name="CM46"/>.
 
Sang tháng 7 năm 1786, quân Tây Sơn do [[Nguyễn Huệ]] chỉ huy tiến ra bắc. Quân Trịnh rệu rã liên tiếp thất bại. Trịnh Tông chạy trốn khỏi kinh thành, bị bắt đã tự sát trên đường bị áp giải<ref name="CM46"/>.
 
Họ Trịnh bị tiêu diệt, chính thể Đàng Ngoài chấm dứt tồn tại. Khi Tây Sơn rút về nam trả lại chính thể cho vua Lê, lực lượng họ Trịnh còn cố gắng tái lập nhưng không thành công. Chính thể của vua Lê sau đó mâu thuẫn với Tây Sơn, cầu viện [[nhà Thanh]] sang giúp nhưng [[trận Ngọc Hồi-Đống Đa|thất bại]] và [[nhà Hậu Lê]] chấm dứt tồn tại năm 1789.