Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tống Phước Hiệp”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 1:
[[Tập tin:Di ảnh Tống Phước Hiệp.jpg|nhỏ|phải|200px|Di ảnh Tống Phước Hiệp]]
'''Tống Phước Hiệp''' hay '''Tống Phúc Hiệp''', '''Tống Phúc Hợp''', '''Tống Phúc Hạp''' (宋福洽, ? - [[1776]])<ref>Theo Phả chí của Tống Phước tộc được lưu giữ trong nhà thờ ở [[Huế]], thì chữ lót “Phước”"Phước" là chữ được chúa Nguyễn ban tặng (không rõ năm) cho dòng tộc vì đã có công phò tá.</ref>; là danh tướng thời chúa [[Nguyễn Phúc Thuần]] trong [[lịch sử]] [[Việt Nam]].
 
==Thân thế và sự nghiệp==
'''Tống Phước Hiệp''' là người ở huyện Tống Sơn (nay là [[Hà Trung]]), phủ Hà Trung, tỉnh [[Thanh Hóa]]. Thủy (hay thỉ) tổ là Tống Phước Trị (từng làmTrấn thủ Thuận Hóa, tước Luân Quận công). Nội ông là Tống Phước Đạo (từng làm Nội tả Chưởng dinh, tước Quảng Tài hầu); và cha ông là Tống Phước An (chưa rõ thân thế).
 
Không rõ Tống Phước Hiệp gia nhập quân đội của chúa Nguyễn khi nào, chỉ biết vào đời chúa Võ vương [[Nguyễn Phúc Khoát]] ([[1714]]-[[1765]]), ông được cử làm Lưu thủ [[Long Hồ (dinh)|Long Hồ dinh]] ([[Vĩnh Long]]), và đã được tiếng là người ''tận tụy với chức vụ, mưu lợi cho dân chúng, việc trị an được tốt đẹp…khiến người người đều thương mến”mến"<ref>Nguồn: ''Vĩnh Long xưa'' (tr.62). Trong ''Đại Nam liệt truyện tiền biên'' (Cao Tự Thanh dịch), sau phần tiểu sử cũng có mấy lời khen ngợi ông như sau: "...Buổi đầu Phước Hiệp trấn thủ Long Hồ, chính sự khoan dung, dân yêu mến như cha mẹ. Tính người khảng khái, có tài lược, thường coi việc dẹp giặc là phận sự của mình, người người đều rất trông cậy. Đến khi chết, người biết tin đều chạy gào thương khóc, ba ngày liền ngoài ruộng bỏ cày bừa, ngoài chợ không mua bán. Chúa thương tiếc không thôi, tặng là Hữu phủ Quốc công, lập đền thờ ở Long Hồ, xuân thu cúng tế, nhiều lần hiển hiện linh ứng, hương lửa không dứt"...</ref>.
===Đánh đuổi quân Xiêm La===
Bấy giờ nước [[Xiêm La]] không có vua, chức Phi nhã (Phya) đất Mang Tát là Trịnh Quốc Anh ([[Taksin]]) bèn khởi binh tự lập làm vua...Trịnh Quốc Anh biết con vua cũ là Chiêu Thúy còn ở [[Hà Tiên]], sợ ngày sau sinh ra biến loạn, bèn đến [[tháng 10]] năm [[Tân Mão]] ([[1771]]) đem binh thuyền sang vây đánh [[Hà Tiên]]. Quan Tổng binh là [[Mạc Thiên Tứ]] giữ không nổi phải bỏ thành chạy. [[Tháng 6]] năm sau ([[1772]]) chúa Nguyễn ([[Nguyễn Phúc Thuần]]) sai Thống suất là [[Nguyễn Cửu Đàm]] lĩnh chức Điều khiển đem binh thuyền đi đánh quân Xiêm La...<ref>Nguồn: [[Trần Trọng Kim]], ''Việt Nam sử lược'' (quyển 2), tr. 86-87.</ref>
Dòng 27:
 
Năm [[Gia Long]] thứ 9 ([[1810]]), nhà vua cho thờ ông nơi miếu Trung tiết công thần.
Ngày 24 [[tháng chín|tháng 9]] năm [[Minh Mạng]] thứ ba ([[1822]]) <ref>Sách ''Vĩnh Long xưa'' (tr. 63) ghi “năm"năm [[Minh Mạng]] thứ ba (1923)" là nhầm.</ref>, lại truy phong ông làm Trung đẳng thần, và cho thờ tại Miếu Hội Đồng ở [[Gia Định]].
 
==Thông tin thêm ==