Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trương Khiên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Chú thích: replaced: {{tham khảo}} → {{tham khảo|2}} using AWB
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 19:
 
==Chinh thảo Hung Nô==
Tháng 2 và tháng 4 năm Nguyên Sóc thứ 6 (123 TCN), Đại tướng quân [[Vệ Thanh]] 2 lần tiến đánh Hung Nô, Trương Khiên làm Hiệu úy, tòng quân chinh chiến ở Mạc Bắc. Ông phát huy những hiểu biết về đặc điểm của quân đội Hung Nô và địa hình sa mạc, góp phần to lớn vào thắng lợi, nhờ công được phong Bác Vọng hầu <ref>[[Nhan Sư Cổ]] chú giải “Hán"Hán thư”rằngthư"rằng: ‘bác vọng’ là hiểu biết rộng rãi, thể hiện sự công nhận của Hán Vũ đế đối với kiến thức của Trương Khiên</ref>.
 
Năm Nguyên Thú thứ 2 (121 TCN), Trương Khiên theo [[Lý Quảng]] ra Hữu Bắc Bình <ref>Nay là đông bắc [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]]</ref> tiến đánh Hung Nô. Lý Quảng soái 4000 kỵ binh đi trước, ông soái 1 vạn kỵ binh theo sau. Quảng liều lĩnh tiến quân, rơi vào vòng vây của Hung Nô, khi ông đến thì quân Hung Nô bèn giải vây mà đi. Trận này tuy Quảng tác chiến dũng mãnh, nhưng bộ đội của ông ta tổn thương gần sạch, luận tội, Trương Khiên đáng phải chết, nhưng dùng hầu tước để chuộc, cuối cùng bị biếm làm thứ dân.
Dòng 28:
Lần này không bị Hung Nô ngăn trở, đoàn sứ giả đến Ô Tôn một cách thuận lợi. Tuy được Ô Tôn vương Côn Mạc chào đón và tiếp nhận lễ vật, nhưng người Ô Tôn lấy cớ Hán xa Hung gần, lại không rõ nhà Hán mạnh yếu thế nào, nên từ chối quay về phía đông, khiến cho mục đích đi sứ không thành. Sau đó, Trương Khiên phái các phó sứ cầm cờ tiết đi đến các nước láng giềng của Ô Tôn là Đại Uyển, Khang Cư, Đại Nguyệt Chi, Đại Hạ, An Tức, Quyên Độc, Vu Điền tiến hành hoạt động ngoại giao.
 
Năm Nguyên Đỉnh thứ 2 (115 TCN), Trương Khiên quay về, mang theo vài mươi sứ giả Ô Tôn đi theo tìm đường đến nhà Hán và vài mươi thớt ngựa tốt của Ô Tôn. Ông được phong làm “đại"đại hành”hành", vị liệt vào “cửu"cửu khanh”khanh". Năm sau (114 TCN), Trương Khiên qua đời, Hán Vũ đế vì muốn kỷ niệm ông, những sứ giả đi sứ Tây Vực về sau đều được gọi là “Bác"Bác Vọng hầu”hầu".
 
==Đánh giá==
Trương Khiên 2 lần đi sứ Tây Vực, vượt muôn trùng hiểm nguy, ở lần đầu tiên, hơn trăm người đi chỉ còn 2 người trở về. Dựa vào con đường mà ông tìm ra, chính là “con"con đương Tơ Lụa”Lụa" nổi tiếng, các thương nhân Đông – Tây đi lại buôn bán, nên người Trung Quốc mới biết đến [[ngựa Hãn Huyết]], [[Nho|bồ đào]], [[Chi Linh lăng|mục túc]], [[lựu|thạch lựu]], [[hồ đào]], [[Vừng|hồ ma]],... Công lao của ông được [[Sử Ký (định hướng)|Sử ký]] ca ngợi là '''tạc không''' (nghĩa là mở mang đường lối cho thông suốt).
 
Việc làm của Trương Khiên đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử giao lưu với các dân tộc khác của người Trung Quốc, xé toang truyền thống xã hội “phong"phong bế tự bảo”bảo". Ông gặp nguy khó không đánh mất khí tiết, không rời bỏ nhiệm vụ, được [[Lương Khải Siêu]] ca ngợi "''kiên nhẫn lỗi lạc kì nam tử, thế giới sử khai mạc đệ nhất nhân''".
 
==Tham khảo==