Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Chiến tranh Triều Tiên: Alphama Tool, replaced: và và → và |
n clean up, replaced: riêng lẽ → riêng lẻ (3) using AWB |
||
Dòng 209:
Mặc dù Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ không có sắp đặt một đơn vị tác chiến đơn độc nào trong vai trò một lực lượng nhưng nó có khả năng một mình triển khai nhanh một lực lượng đặc nhiệm vũ trang hỗn hợp đến gần như bất cứ nơi đâu trên thế giới trong vài ngày. Cơ cấu căn bản cho tất cả các đơn vị được triển khai là Lực lượng đặc nhiệm Không-Bộ binh Thủy quân lục chiến (''marine air-ground task force'') mà kết hợp cả thành phần tác chiến bộ binh với thành phân tác chiến trên không và thành phần tác chiến tiếp vận dưới quyền của một bộ tư lệnh chung. Mặc dù việc thành lập các bộ tư lệnh hỗn hợp dưới [[Đạo luật Goldwater-Nichols]] đã cải thiện sự phối hợp bên trong mỗi quân chủng nhưng khả năng của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ duy trì các lực lượng đặc nhiệm đa thành phần thường trực dưới một bộ tư lệnh duy nhất đã giúp việc thực thi các nguyên lý chiến tranh vũ trang kết hợp trôi trải hơn.<ref name="Warren" />
Việc sát nhập các đơn vị thủy quân lục chiến riêng
Việc tập trung vào bộ binh như thế phù hợp với chủ thuyết "mỗi binh sĩ thủy quân lục chiến là một tay súng trường". Sự chú trọng của tham mưu trưởng [[Alfred M. Gray, Jr.]] là sự nhấn mạnh về khả năng tác chiến bộ binh của mỗi binh sĩ thủy quân lục chiến. Tất cả các binh sĩ thủy quân lục chiến, không cần biết là chuyên môn quân sự của họ là gì, đều phải được huấn luyện như một tay súng; tất cả các sĩ quan đều phải được huấn luyện như một trung đội trưởng bộ binh.<ref>{{chú thích web
Dòng 320:
=== Thời kỳ quá độ: Nội chiến đến Đệ nhất Thế chiến ===
Phần còn lại của thế kỷ 19 được đánh dấu bằng sự sa sút lực lượng và nội quan về nhiệm vụ của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Việc chuyển tiếp từ tàu buồm sang tàu hơi nước của Hải quân Hoa Kỳ đã đặt thành dấu hỏi là liệu Thủy quân lục chiến có còn cần thiết hay không trên các tàu hải quân. Trong khi đó, Thủy quân lục chiến phục vụ như nguồn nhân lực thích hợp trong việc can thiệp và đổ bộ để bảo vệ sinh mạng và quyền lợi của người Mỹ ở ngoại quốc. Thủy quân lục chiến đã tham gia vào trên 28 cuộc can thiệp riêng
| last = Ellsworth
| first = Harry Allanson
Dòng 635:
| archivedate=22 December 2007
| doi =
| accessdate = 3 August 2008}}</ref> dưới quyền của một thành phần tư lệnh chung, có khả năng hoạt động độc lập hoặc là một bộ phận của một liên quân lớn hơn. Cơ cấu Lực lượng Đặc nhiệm Không-Bộ Thủy quân lục chiến phản ánh một truyền thống mạnh mẽ của Thủy quân lục chiến về sự tự lực và sự đóng góp cho lực lượng hỗn hợp. Đây là vốn liếng thiết yếu cho một lực lượng viễn chinh thường được phái đến để hành động độc lập trong mọi tình huống cả về cấp bách và riêng
Một Lực lượng Đặc nhiệm Không-Bộ Thủy quân lục chiến có nhiều tầm mức lớn nhỏ khác nhau: nhỏ nhất là một Đơn vị Viễn chinh Thủy quân lục chiến gồm một [[tiểu đoàn]] bộ binh được tăng cường và một [[phi đoàn]] gồm nhiều loại phi cơ; đến lớn nhất là một Lực lượng Viễn chinh Thủy quân lục chiến gồm có một [[sư đoàn]], một [[không đoàn]] và một Liên đoàn Tiếp vận dưới một Liên đoàn Tổng hành dinh Lực lượng Viễn chinh Thủy quân lục chiến. Bãy Đơn vị Viễn chinh Thủy quân lục chiến thay phiên nhau đổi vị trí giữa họ và các thành phần liên kết của họ để duy trì tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao. Mỗi Đơn vị Viễn chinh Thủy quân lục chiến được đánh giá là có khả năng thực hiện các [[chiến dịch đặc biệt]].<ref>{{chú thích web|url=http://www.usmc.mil/meus/other_expeditionary_units.htm|archiveurl=http://web.archive.org/web/20071214162400/http://www.usmc.mil/meus/other_expeditionary_units.htm|archivedate=14 December 2007
|