Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ninh Tốn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 3:
 
==Thân thế và sự nghiệp==
Ông là người Côi Trì, nay thuộc xã [[Yên Mỹ, Yên Mô|Yên Mỹ]] huyện [[Yên Mô]], tỉnh [[Ninh Bình]]. Theo bia "Côi Trì bi ký" do Ninh Tốn soạn năm [[1769]], thì tổ tiên ông trước ở Ninh Xá, huyện [[Chí Linh]] ([[Hải Dương]])<ref>''Thơ văn Ninh Tốn'', tr. 7.</ref>. Tuy nhiên, theo "Bia Dã Hiên Tiên Sinh Mộ Biểu"<ref>{{Chú thích web|url = http://baotangnhanhoc.org/vi/tin-tuc-su-kien/su-kien-noi-bat/780-mt-bn-gia-hun-45-chng-khc-tren-a-.html|title = Bia Dã Hiên Tiên Sinh Mộ Biểu}}</ref>, sách Ninh Tướng Công Hành Trạng<ref name="hannom.vass.gov.vn">{{Chú thích web|url = http://hannom.vass.gov.vn/noidung/Disan/Pages/ky-hieu.aspx?ItemID=5511|title = Ninh Tướng Công Hành Trạng}}</ref> và Gia phả họ Ninh tại Côi Trì, thì tổ tiên ông là Doãn Chung từ thôn Ninh Xá, huyện Vọng Doanh (nay thuộc xã [[Yên Ninh, Ý Yên|Yên Ninh]] huyện [[Ý Yên]], tỉnh [[Nam Định]]) tới "chiếm xạ" (?) tại Côi Trì vào khoảng năm Hồng Đức triều Hậu Lê khai khẩn đất rồi định cư luôn ở đó.
Cha Ninh Tốn là Ninh Ngạn (''hiệu Dã Hiên, Hy Tăng'')<ref name="hannom.vass.gov.vn"/><ref>''Thơ văn Ninh Tốn'', tr. 8.</ref><ref>{{Chú thích web|url = http://hannom.vass.gov.vn/noidung/Disan/Pages/ky-hieu.aspx?ItemID=5511|title = Ninh Tướng Công Hành Trạng}}</ref>, một ẩn sĩ, là tác giả của hai tập sách: Vũ Vu thiển thuyết (''Lời bàn nông cạn về thú ở ẩn'') và Phong vinh tập (''Tập thơ văn Vịnh gió''). Bác của Ninh Tốn là Ninh Địch, đỗ [[Hoàng giáp]] khoa [[Mậu Tuất]] ([[1718]]) đời [[Lê Dụ Tông]].
 
Từ nhỏ, Ninh Tốn đã nổi tiếng là thông minh, được cha cho trọ học ở kinh đô [[Thăng Long]]. Năm [[1762]], ông đỗ Hương cống (tức [[Cử nhân (định hướng)|Cử nhân]]). Sau đó, ông tiếp tục theo học với Tiến sĩ Vũ Huy Đĩnh. Ở đây ông kết thân với hai bạn học là [[Phạm Nguyễn Du]] và [[Vũ Huy Tấn]].
Dòng 26:
Năm [[1786]], ông làm Hiệp trấn ở Động Hải (thuộc [[lệ Thủy, Quảng Bình|huyện Lệ Thủy]], tỉnh [[Quảng Bình]]). Khi quân [[Tây Sơn]] đoạt thành [[Cố đô Huế|Phú Xuân]] (1786), tiến đánh ra các đồn Cát Thanh, Động Hải thì ông bỏ đồn mà chạy <ref>Việc Ninh Tốn bỏ đồn tháo chạy, sách ''Hoàng Lê nhất thống chí'' (hồi thứ tư) chép: ''Chiếm xong [[Cố đô Huế|Phú Xuân]], Bình (tức [[Nguyễn Huệ]]) nhân đà thắng kéo quân ra lấy luôn đồn Động Hải. Tướng giữ đồn là Vị phái hầu cùng hiệp trấn là Ninh Tốn mới trông thấy bóng quân Tây Sơn đã chạy trốn. Thế là mất hết cả đất Thuận Hoá. Bấy giờ là ngày 14 [[tháng năm|tháng 5]] năm [[Bính Ngọ]] niên hiệu Cảnh Hưng ([[1786]]).''</ref>. Nhưng sau đó vẫn được giao chức Tham tri chính sự kiêm Bồi tụng cùng với Ngô Trọng Khuê.
 
Năm [[1787]], quân Tây Sơn do [[Vũ_Văn_NhậmVũ Văn Nhậm|Võ Văn Nhậm]] chỉ huy đánh ra Bắc diệt [[Nguyễn Hữu Chỉnh]]. Chỉnh tâu với vua Lê Chiêu Thống, cho Nguyễn Như Thái làm Thống lĩnh, Ninh Tốn làm Tham tán quân vụ, đem quân họp với quân của Lê Duật, chống lại. Vốn là người Côi Trì, am hiểu rõ vị trí chiến lược của Tam Điệp nên ông khuyên Nguyễn Như Thái nhanh chóng chiếm giữ để ngăn quân Tây Sơn. Nhưng mới tới Phủ Lý thì quân của Võ Văn Nhậm đã vượt qua Tam Điệp<ref>{{Chú thích web|url = https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng_L%C3%AA_nh%E1%BA%A5t_th%E1%BB%91ng_ch%C3%AD|title = Hoàng Lê Nhất Thống Chí}}</ref>. Lê Duật bị [[Ngô Văn Sở]] giết chết ở Cao Lũng, Nguyễn Như Thái bị tên bắn chết sau khi thua trận ở sông Giản (thuộc [[Ninh Bình]]), còn Ninh Tốn nhờ trốn vào nhà dân được thoát nạn <ref>Xem chi tiết trong ''Hoàng Lê nhất thống chí'', hồi thứ mười.</ref>.
 
===Làm quan thời Tây Sơn (1788-1790)===