Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đạn tự hành”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Sơ lược lịch sử đạn tự hành chống tăng ATGM: replaced: {{fact}} → {{fact|date=7-2014}}
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 67:
 
===[[đạn tự hành hành trình]]===
[[ImageHình:Tomahawk Block IV cruise missile -crop.jpg|thumb|300px|trái|BGM-109 Tomahawk]]
Trái lại với đạn đường đạn, [[đạn tự hành hành trình]] là đạn có động cơ chính đẩy nó suốt dọc đường, còn gọi là đạn tự hành tuần hành (nghĩa là động cơ tuần tự trong hành trình; tiếng Anh: ''cruise missiles''; Hán-Việt: ''tuần hành đạo đạn''). Đạn tự hành hành trình thường hay bay trong không khí, có cánh và cũng hay được gọi là [[đạn tự hành có cánh]], đặc biệt là người Nga thích thế.
 
Dòng 75:
 
===Đạn tự hành đối không===
[[ImageHình:S-300V.jpg|thumb|trái|S-300V (SA-12a Gladiator)]]
[[ImageHình:AA-11 Archer missile.PNG|thumb|300px|trái|AA-11 Archer]]
Người ta thường ký hiệu đạn đất đối không SAM và không đối không AAM. Những đạn này có động cơ hoạt động trong suất thời gian đạn bay để lái đạn theo đường bay phức tạp. Hầu hết các đạn này dùng động cơ tên lửa, nhưng cũng có một số đạn dùng động cơ hút không khí. Các đạn tự hành đối không đều là loại đạn tự hành có cánh. Ngày nay các đạn đối không hiện đại đều sử dụng động cơ nhiên liệu rắn, loại động cơ này ít phải bảo dưỡng, sẵn sàng chiến đấu liên tục trong cả chục năm. Các đạn đối không đều có cánh lái phức hợp bao gồm cả lái bằng cánh khí động và lái bằng định hướng lực đẩy.
 
Dòng 83:
Người ta có thể chia các đạn tự hành đối không ra các hạng: đất đối không SAM, không đối không AAM.... cũng có đạn bắn từ tàu ngầm. Đạn đất đối không cũng được dùng trên tàu nổi. Đạn đất đối không có thể chia ra làm ba hạng là tầm ngắn vác vai, tầm trung và tầm xa. Đạn tự hành không đối không cũng chi ra ba hạng là tầm ngắn, tầm xa và loại đạn tầm rất xa chống máy bay có khả năng vận động kém.
 
[[ImageHình:SA-7.jpg|thumb|300px|trái|Strela 2, mã NATO SAM-7, tên Việt Nam A72]]
SAM nhỏ vác vai ví dụ như SAM-7 được dùng trong chiến tranh Việt Nam, thường có đầu dò hồng ngoại và lái theo hướng tự hướng mục tiêu. 9K38 Igla ngày nay (SAM-16) nặng cả ống phóng 11 kg bắn xa 5 km. Đạn tự hành đối không vác vai là sát thủ chính của máy bay trực thăng. Mặt yếu của đạn này là không đánh được các mục tiêu bay nhanh. Những đạn tự hành đối không tầm trung và trung ngắn dùng trên xe cơ động hay tháp pháo phòng không tầm từ trung đến cực ngắn của tàu chiến. Ngày nay được dùng thêm cho các hệ thống đối không bắn đối đầu bảo vệ mục tiêu như 9K33 Osa có tầm bắn 20 km, nặng 34 kg, 9K33 Osa được dùng ghép cùng với pháo điều khiển điện tử như xe tự hành 9K22 Tunguska, xe có 2 nòng 30mm liên thanh. Đạn tầm trung có thể dùng hồng ngoại, laser hay radar. Những đạn đánh chặn tốt nhất sử dụng laser, chùm laser lại được lái bởi máy tính tham khảo nhiều thiết bị trinh sát đo đạc lớn trên hệ thống mẹ (như tàu chiến), nên đánh chặn mục tiêu lao về mình chính xác và tốc độ phản ứng nhanh. Đạn đất đối không SAM tầm xa hiện nay bắn được 300 km như S-400. Hệ thống điều khiển của SAM rất lớn nên thường có tầm phát hiện mục tiêu cao hơn nhiều đạn. Hệ thống điều khiển cũng sử dụng rộng rãi các radar nhiều băng tần, băng dm... nên chống tàng hình tốt, chúng lái đạn có đầu radar nhỏ hơn về phía mục tiêu cho đến khi đạn nhìn rõ mục tiêu và đạn tấn công tự động với độ chính xác cao. Một số đạn tự hành chống tăng hiện đại như AT-14, AT-16 của Nga đánh được các loại máy bay có tốc độ dưới 800 km/h như các máy bay cánh quạt và trực thăng, cũng được dùng như SAM hay AAM.
 
Dòng 97:
 
===Đạn tự hành chống tăng ATGM===
[[ImageHình:9M133 Kornet.JPG|thumb|trái|300px|9M133 Kornet]]
ATGM dùng đầu đạn lõm để xuyên giáp. Ngày nay các ATGM thường dùng đầu đạn tandem 2 tầng để vượt qua giáp phản ứng nổ ERA. ATGM hiện nay có tầm bắn diệt giáp hạng nặng cao hơn pháo tăng bắn đạn xuyên APFS-DS, ATGM bắn từ phương tiện cơ giới ngày nay vượt 5 km, APFS-DS chỉ 1 km. ATGM cho phép máy bay không mang được pháo tăng cũng diệt được xe tăng ở tầm xa. NGoài ra, xe tăng ngày nay cũng áp dụng ATGM bắn từ nòng pháo. Đạn ATGM dễ bị lỗi hơn đạn xuyên truyền thống, các nguyên nhân lỗi là nhiễu mất điều khiển, bắn vào giáo quá nghiêng, hay gặp giáp phản ứng nổ. Đạn ATGM cũng dễ bị đánh chặn hơn bởi các hệ thống đánh chặn bảo vệ xe tăng APS. Đêt tăng độ tin cậy cần bắn chính xác ATGM vào những chỗ yếu trên vỏ xe tăng như ổ đỡ tháp pháo, nóc xe, đuôi xe...
 
Dòng 131:
AT-3 là phiên bản hoàn thành cải tiến này. AT-3 có tên Nga là 9k11 Малютка (ma liu ka, bé con). AT-3 không phải là phiên bản dùng trên xe như AT-1 và AT-2, mà như các đạn phương tây khác, là phiên bản dùng cá nhân. Đạn được chấp nhận năm 1961 cùng đợt với việc Liên Xô tổ chức bộ binh cơ giới mới, kiểu mẫu cho bộ binh cơ giới thế giới ngày nay. Lúc này, có hàng loạt vũ khí được trang bị mới là B41 RPG-7 (1959), AKM (1959), súng máy đa năng PK, súng trung liên kiêm chức súng trường xung phonh RPK (1959-1961). Điều đáng kể nhất là các xe chở bộ binh BTR/APC được thay bởi các BMP/IFV, Liên Xô đưa vào sử dụng BMP-1. AT-3 có tầm bắn 2–3 km, đầu nổ 2,5-3,5 kg nhưng đã cải tiến hình dáng và chất thuốc để có sức xuyên vượt bậc, cả đạn 11–12 kg, tốc độ 115–130 m/s. AT-3 trở thành đạn kiểu mẫu cho cả thế giới, thậm chí là cả Bắc Nam Triều Tiên đều copy đạn này với các tên gọi khác nhau, Đài Loan cũng không vì tình bằng hứu với Mỹ mà không copy một bản về dùng. AT-3 sử dụng một cơ cấu lái duy nhất dùng lái hướng lực đẩy chứ không phải lái khí động như AT-2, đạn đã bỏ các cơ cấu lái hướng riêng trong các đạn cũ. Đạn AT-3 quay với tốc độ 8 vòng/giây, khi đạn đến góc hợp với lệnh lái thì nam châm điện hút cánh lái lực đẩy đạp vào luồng khí phụt ra. Khả năng đến mục tiêu của cơ cấu này tăng vọt. Sau này thì cả thế giới chấp nhận và cải tiến nguyên tắc lái bằng một cơ cấu này.
 
[[ImageHình:AT-3A Sagger missile.JPG|thumb|trái|300px|AT-3 với cơ cấu lái có một hướng duy nhất trên tuye sau đuôi, các cánh gập vào cho gọn khi vận chuyển]]
Các trang mạng theo wiki nói AT-3 thiết kế theo các phiên bản phương Tây là hết sức nhảm nhí. Ví dụ [[9M14 Malyutka|Việc thiết kế được dựa trên các mẫu tên lửa chống tăng của phương Tây trong những năm 1950, như Entac của Pháp và Cobra của Thụy sỹ.]]. Tất cả các ATGM phương Tây nói chung và châu Âu nói riêng đều sử dụng cơ cấu lái nhiều hướng cùng lúc bằng nhiều thiết bị lái, đây là phương pháp lái của đạn đối không. Chủ yếu phân ra 3 hướng hay 4 hướng lên xuống trái phải. AT-3 có phương pháp lái hoàn toàn khác về nguyên tắc, nó chỉ có một cơ cấu lái duy nhất, đạn quay tròn, trong khi con quay hồi chuyển trong đạn nhớ hướng bay, đến hướng cần lái thì cánh lái duy nhất nghiêng theo một chiều duy nhất, nhờ đạn quay tròn mà cánh lái duy nhất này lái đạn theo mọi hướng.
 
Dòng 163:
 
===Đạn tự hành chống hạm===
[[ImageHình:Brahmos imds.jpg|thumb|trái|300px|Brahmos]]
Đạn tự hành chống hạm chuyên diệt tàu biển, cũng có nhiều loại đạn tự hành kiêm các chức năng đối hạm và đối đất. Yêu cầu riêng của đạn tự hành đối hạm là nó tấn công mục tiêu được bảo vệ rất tốt, hỏa lực mạnh. Hiện nay đã phổ biến loại pháo liên thanh phóng không tự động, ngắm bắn bằng máy tính qua các phương tiện trinh sát như radar-hồng ngoại, hay kết hợp các đạn tự hành dùng máy đẩy tên lửa đóikhông các cấp, từ SAM tầm xa cho đến các SAM tầm cực ngắn chuyên bắn đối đầu. Một đặc điểm nữa là đạn tự hành chống hạm cần có đầu đạn lớn như là chống các mục tiêu trên mặt đất.
 
Dòng 195:
 
===[[Bom lượn]]===
[[ImageHình:AGM-154 JSOW 01.jpg|thumb|trái|300px|AGM-154 JSOW]]
[[Bom lượn]] là đạn tự hành không có động cơ, nó dùng các cánh khí động để lái. Bom lượn được thả từ máy bay và có các kiểu dẫn đường khác nhau. Ruhrstahl X-1 (Fritz X) là một loại bom lượn.
 
Dòng 203:
 
===Đạn tự hành chống tên lửa đạn đạo===
[[ImageHình:Galosh anti-ballistic missile launcher.JPEG|thumb|trái|300px|ABM-1 Galosh]]
Đa phần các tên lửa đạn đạo là đạn tự hành nên cũng là đạn tự hành chống đạn tự hành đạn đạo, thường gọi tắt là đạn tự hành chống đạn đạo hay chống đạn tự hành đạn đạo Anti-Ballistic Missile ABM.
 
Dòng 233:
Những đạn tự hành đầu tiên có lẽ là các [[ngư lôi]] của [[thế kỷ 19]], nó ban đầu được lái qua dây cơ, [[ngư lôi Brennan 1877]] và sau đó là ý tưởng truyền lệnh lái qua dây diện rồi [[radio]] của [[Nikola Tesla]], đáng tiếc là hướng này lúc đó không được [[Hoa Kỳ|Mỹ]] chấp nhận chi tiền phát triển và xếp xó. Hồi [[Thế chiến thứ nhất]], Nga phát triển những đạn tự hành đất đối không đầu tiên.
 
[[FileTập tin:V-1 cutaway.jpg|thumb|trái|250px|Sơ đồ cắt V-1]]
[[FileTập tin:V-2 rocket diagram (with English labels).svg|thumb|trái|300px|Sơ đồ cắt V-2.]]
[[Đức]] trong [[Thế chiến thứ hai]] phát triển những loại đạn tự hành cơ sở ngày nay <ref>[http://www.wehrmacht-history.com/luftwaffe/missiles.htm Missiles<!-- Bot generated title -->]</ref>. [[:de:Aggregat 4|V-2]] là [[đạn tự hành đường đạn]], nó có [[con quay hồi chuyển]], [[tích phân quán tính]] và [[động cơ tên lửa]], đến nay vẫn là kiểu mẫu cho những [[đạn tự hành đường đạn]] cho đến tên lửa đẩy vũ trụ. [[:de:Aggregat 4|V-2]] có máy đẩy dùng động cơ tên lửa chất đẩy lỏng hai thành phần, chất đẩy có hai thành phần là nhiên liệu và chất oxy hóa, cồn 75 độ và oxi lỏng. Cấu tạo máy đẩy có hai đường nhỏ dẫn nhiên liệu và chất oxi hóa đến một buồng đốt nhỏ đẩy máy bơm tuốc bin, máy bơm này đẩy các chất đẩy đến buồng đốt chính, và hai đường thông áp từ buồng đốt chính đến các thùng chứa. Thêm nữa, [[:de:Aggregat 4|V-2]] dùng các cánh lái than chì để lái hướng lực đẩy, thực hiện đổi hướng cho đạn. [[V-1]] là [[đạn tự hành hành trình]], có [[động cơ]] dùng không khí, nó dùng [[pulse ramjet]], [[con quay hồi chuyển]] và [[chương trình]] bay cứng, [[pulse ramjet]] là loại ramjet đóng kín khi đốt nhiên liệu - để tăng hiệu quả nhiên liệu trong tốc độ thấp. [[:de:Fieseler Fi 103|Bom bay V-2]] có cấu hình là một máy bay không người lái vác động cơ trên lưng.[[Ruhrstahl X-7]] là [[ATGM]] đầu tiên của loài người, lái dây. [[X-4]] là [[AAM]] đầu tiên của nhân loại được ứng dụng, là một phiên bản X-4 có [[ngòi nổ]] chống máy bay bằng cảm ứng [[âm thanh]]. Các đầu dò hồng ngoại cho [[AAM]] và [[SAM]] lái radar cũng được phát triển như [[Wasserfall]] (một phiên bản R/C quan sát radar của V-2, tuy nhiên, đạn đã được sản xuất rất nhiều nhưng người ta không kịp hiệu chỉnh radar để sử dụng, sau này, nhưng nghiên cứu của Liên Xô cho thấy sử dụng nó là bất khả, nhưng trên cơ sở đó Liên Xô đã cho ra đời SAM-1 bằng radar lớn và tiên tiến hơn, [[:en:Wasserfall|tiếng Anh]]). Trong những ảnh còn lại, đã thấy X-7, A-4 tham chiến, cũng có tài liệu nói X-4 cũng đã diệt được mục tiêu. Tuy nhiên, số lượng của chúng và số mục tiêu chúng diệt được, nếu có, rất không đáng kể. Những chiến công quan trọng đạt được bởi các loại [[bom lượn]], cụ thể hơn là các [[đạn tự hành chống hạm]] (''anti-ship missile'') đầu tiên, trong đó đanh đắm hai [[soái hạm]] [[Ý]] (đã đầu hàng) và rất nhiều tàu chiến lớn của [[Đồng Minh]]. Các đạn này có [[điều khiển bằng truyền lệnh qua sóng vô tuyến]] (''radio/command'' hay R/C). Các phiên bản được sản xuất nhiều cuối chiến tranh đã có [[hướng sóng điện từ]] (''radio homing''). Những thử nghiệm lúc đó đã có điều khiển qua [[vô tuyến truyền hình]] (TV).