Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đoàn Nguyễn Tuấn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Giá trị trong văn học Việt: Alphama Tool, General fixes
Dòng 30:
*Những bài chân thành và hào hứng ca ngợi võ công của đội quân Tây Sơn, đã mang lại cảnh thanh bình thịnh trị cho đất nước; hoặc biểu lộ niềm tự hào về nền văn hiến dân tộc, như: "Kỷ Dậu trọng thu thượng hoan nghênh tiếp sách sứ, tâm hữu Nguyễn Quế Kiên tặng thi nhị thủ, y nguyên vận phúc" (''Sáng sớm ngày hai mươi tháng mười một hạ được thành, mừng làm thơ''); "Quá [[sông Hồng|Nhị Hà]] quan Bắc binh cố lũy" (''Qua sông Nhị xem lũy cũ của quân [[nhà Thanh|Bắc]]''); "Trọng đông nguyệt, nhị thập thất nhật, tảo thời, khắc thành, hỷ tác"; "Cụ phong hậu cảnh sắc" (''Cảnh sắc sau cơn bão táp''), "Nam phong" (''Gió Nam''); "Ngự dinh cung kỳ" (''Trong cung vua, kinh ghi''); "Đáp vấn" (''Trả lời câu hỏi'')...Ngần ấy cho thấy niềm phấn khởi, lòng tin, ý muốn đóng góp nhiều cho triều đại mới của ông. Tuy nhiên sau đó, nhận thấy vương triều này suy thoái nhanh chóng, nhất là sau khi vua [[Quang Trung]] đột ngột mất đi, khiến rải rác trong thơ ông không khỏi có những ý nghĩ bi quan, buồn chán...
*Những bài thơ tức cảnh, ngẫu hứng như: “Nguyệt"Nguyệt Đức giang hoài cổ”cổ" (''Qua sông Nguyệt Đức nhớ chuyện xưa''), "Quá Tống Trân mộ" (''Qua mộ Tống Trân''); ("Dục Thúy sơn hành" (''Bài hành về núi Dục Thúy''), "Quá Tam Điệp sơn" (''Qua núi Tam Điệp''), "Quá Đông Sơn Bố Vệ" (''Qua làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn''), "Vọng Na sơn ca" (''Bài ca trông núi Nưa''), "Quá Quỳnh Tụ kiến tùng cương, ngẫu tác" (''Qua đất Quỳnh Tụ thấy đồi thông, ngẫu hứng làm thơ''); 29 bài thơ viết về mùa thu...Nổi bật, là những bài thơ viết về [[Thăng Long]] ("Thăng Long tam thập vịnh"). Qua chùm thơ này, người đọc được hiểu cụ thể hơn gương mặt của kinh thành trên hồi [[thế kỷ 18]]. Cũng qua đây, người đọc thấy rõ hơn tình yêu và sự am hiểu của ông đối với Thăng Long...
*Những bài thơ tự thuật và cảm xúc trữ tình như: "Tại Đồ Bàn thành ngoại khách xá tri húy nhật" (''Tại quán khách ngoại thành Đồ Bàn, gặp ngày giỗ cha''); "Thu, dư nhập kinh, đông mạt thủy qui, nhân ức [[Nguyễn Du|Tố Như]] thị “Nhất"Nhất quan bôn tẩu phong Trần Mạt”Mạt" chi cú triền thành tứ vận" (''Mùa thu ta vào kinh, cuối đông mới về, nhân nhớ câu “Nhân"Nhân quan bôn tẩu phong trần mạt của Tố Như bèn dàn thành bốn vần''); "Tuế mạt đáo xuân kinh tác" (''Bài thơ làm dịp cuối năm khi tới kinh đô [[Phú Xuân]]''); "Khách xá cảm hoài" (''Cảm nghĩ khi ở quán trọ''); "Tu bạch" (''Râu bạc''); "Thư hoài" (''Tả nỗi lòng'')...
 
*Những bài thơ họa đáp, tiễn tặng bạn bè như: "Vũ Huynh Bắc hồi, dư họa nguyên vận ký phục" (''Họa Vũ huynh về Bắc, tôi họa nguyên văn gửi đáp''), "Họa Nguyễn Hàn lâm nguyên tác" (''Họa nguyên văn của quan Hàn lâm họ Nguyễn''), "Họa bất mị thi" (''Họa bài thơ không ngủ''), "Tiễn Vũ thị lang Bắc sứ" (''Tiễn quan Thị lang họ Vũ sang sứ Trung Quốc''), "[[Kỷ Mùi]] trọng hạ y nguyên vận tiễn Ngự quan Nam hoàn" (''Tháng Năm năm Kỷ Mùi theo nguyên văn tiễn quan Ngự về Nam'')...