Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Guiné-Bissau”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Chính trị: clean up, General fixes using AWB |
n clean up, replaced: đảo chánh → đảo chính (4) using AWB |
||
Dòng 64:
Guiné-Bissau xưa thuộc [[vương quốc Kaabu]], phụ thuộc [[Đế quốc Mali]]. Vương quốc Kaabu đến thế kỷ 18 vẫn tồn tại tuy không trọn vẹn vì [[người Bồ Đào Nha]] đã chiếm cứ vùng duyên hải từ [[thế kỷ 15]]. Nạn [[buôn nô lệ]] phát khởi vào [[thế kỷ 17]], sau càng thịnh hành đến cuối [[thế kỷ 19]] mới chấm dứt và khu vực Guiné-Bissau là nguồn đáng kể cung cấp nô lệ sang [[Tân Thế giới|Tân Thế Giới]], nhất là sang [[Brasil]].
Người Bồ Đào Nha duy trì nền thuộc địa đến thập niên 1950 thì phong trào kháng chiến vũ trang do "Đảng châu Phi vì Độc lập Guiné và Cabo Verde" (''Partido Africano da Independência da Guiné e Cabo Verde'' PAIGC) phát động. Dưới sự lãnh đạo của [[Amílcar Cabral]] đảng này dần kiểm soát được phần lớn nước Guiné. Lực lượng du kích dựa vào địa thế rừng núi và nguồn viện trợ quân sự từ [[Cuba]], [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]], [[Liên Xô]] và một số quốc gia [[châu Phi]] khác dần chiếm được ưu thế. Năm 1973 đảng PAIGC tuyên bố độc lập. Liên Hiệp Quốc liền công nhận chính phủ mới. Sang năm sau tại Bồ Đào Nha một chính phủ [[thiên tả]] thành lập sau cuộc đảo
Tuy độc lập, liền sau đó Guiné-Bissau bước vào thời kỳ hỗn loạn. Thành phần ủng hộ Bồ Đào Nha trước kia bị sát hại. Điển hình là cuộc thảm sát tại [[Bissorã]]. Mồ chôn tập thể tại [[Cumerá]], [[Portogole]] và [[Mansabá]] là chứng tích của thời kỳ thanh toán trả thù.
Khó khăn kinh tế cuối thập niên 1970 đưa đến cuộc đảo
Tháng 6 năm 2005, Guiné-Bissau lại tổ chức tổng tuyển cử. Hai cựu tổng thống Ialá đảng PRS và Vieira đảng PAIGC đều ra tranh cử với Vieira đắc cử, lập chính phủ dân sự thứ ba của Guiné-Bissau.
Dòng 124:
== Kinh tế ==
Kinh tế Guiné-Bissau chủ yếu là [[kinh tế]] [[nông nghiệp]]. Hai hàng xuất cảng chính là [[cá]] và hột [[đào lộn hột|điều]] nhưng nền kinh tế Guiné-Bissau đã gặp nghiều khó khăn kể từ cuộc chiến giành độc lập năm 1974. Tiếp theo sau đó là cuộc nội chiến 1998-99 gây nhiều thiệt hại đến hạ tầng cơ sở. Năm [[2003]] kinh tế Guiné-Bissau lại thêm gián đoạn bởi cuộc đảo
Tính theo chỉ số quốc tế thì Guiné-Bissau là một trong những nước nghèo nhất thế giới với 2/3 dân chúng sống dưới [[ngưỡng nghèo|ngạch bần cùng]]. Thời kỳ bất ổn chính trị đã làm kinh tế suy thoái, [[xã hội]] suy đồi, và mậu dịch mất quân bình.
|