Khác biệt giữa bản sửa đổi của “A7V”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Anhminh96 (thảo luận | đóng góp)
Trang mới: “{{Infobox Weapon |name= A7V |image= 300px |caption= Một bản sao của "Wotan" tại bảo tàng xe tăng Munster, Đức |…”
 
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 46:
Trước sự xuất hiện của lớp tăng Anh đầu tiên ở mặt trận phía Tây, ''Allgemeines Kriegsdepartement, 7. Abteilung, Verkehrswesen'' (Cục tổng chiến tranh, chi nhánh 7, vận tải) đã được thành lập vào tháng 9 năm 1916.
 
Dự án thiết kế và lắp ráp chiếc xe tăng Đức đầu tiên đã được đặt dưới sự chỉ đạo của [[Joseph Vollmer]], một [[kĩ sư]] kiêm [[đại úy]] dự bị. Nó nặng khoảng 30 tấn, có khả năng vượt qua chiến hào rộng tới 1.5 mét, vũ khí chính bao gồm pháo ở mặt trước và hai bên cùng vài [[súng máy]], đạt tốc độ tối đa ít nhất là 12  km/h, bánh xích dựa trên máy kéo Holt, sao chép từ mẫu được cho mượn bởi [[quân đội Australia]]. Sau khi kế hoạch ban đầu được chia sẻ với quân đội vào tháng 12 năm 1916, bản thiết kế được mở rộng với khung phổ thông được sử dụng dựa trên cả xe tăng và xe kéo hàng ''[[Überlandwagen]]''.
 
Nguyên mẫu đầu tiên được hoàn thành bởi [[Daimler-Motoren-Gesellschaft]] ở Berlin-Marinfelde và được thử nghiệm vào ngày 30 tháng 4 năm 1917. Một mô hình bằng gỗ của phiên bản cuối cùng được hoàn thành vào tháng 5 năm 1917 và được thao diễn ở Mainz với 10 tấn [[đá balat]] mô phỏng giáp. Trong phiên bản cuối cùng, người ta đã bỏ đi [[súng đại bác]] ở mặt sau và tăng số lượng [[súng máy]] lên 6 khẩu. Mẫu A7V trước được sản xuất vào tháng 9 năm 1917, sau đó là mẫu chính thức được sản xuất vào tháng 10 năm 1917. Những chiếc A7V này được xếp vào Đơn vị xe tăng tiến công 1 và 2, thành lập ngày 20 tháng 9 năm 1917, mỗi chiếc bao gồm tổ lái 5 người, 109 [[hạ sĩ quan]] và binh lính.
 
===Đặt tên===
Tên của chiếc xe tăng được suy ra từ tổ chức sinh ra nó ''Allgemeines Kriegsdepartement, 7. Abteilung, Verkehrswesen'', ở Đức nó được gọi là ''Sturmpanzerwagen'' ( nghĩa là [[xe bọc thép tiến công]]).
 
==Thiết kế==
A7V dài 7.34 mét, rộng 3 mét và có chiều cao tối đa là 3.3 mét. Được trang bị lớp [[thép]] dày 20  mm ở hai bên, dày 30  mm ở mặt trước và 10  mm ở nóc, tuy nhiên, thép không được gia công thành thép tấm, điều này làm giảm đi hiệu quả của nó. Nó đủ dày để chống đỡ đạn súng máy và súng trường nhưng sẽ bị xuyên nếu gặp cỡ đạn lớn hơn. Hiệu quả bảo vệ của lớp giáp này có thể so sánh với lớp giáp của những chiếc xe tăng cùng thời, hiệu quả hơn nhờ sử dụng [[thép tấm]].
 
Kíp chiến đấu thường bao gồm 17 lính và 1 sĩ quan: 1 [[chỉ huy]] (thường là [[trung úy]]), 1 [[lái xe]], 1 [[thợ máy]], 1 [[liên lạc viên]], 12 [[bộ binh]] (6 xạ thủ, 6 người nạp đạn) và 2 [[pháo thủ]] ( người bắn và nạp đạn chính).
 
==Trang bị==
[[FileTập tin:A7V Nordenfeldt 17-10-2009 15-22-05.JPG|thumb|left|<center>Khẩu Maxim-Nordenfelt 57 mm từ chiếc A7V "Schnuck" ở [[Bảo tàng hoàng gia Anh]], [[Manchester]], [[Anh]]</center>]]
===Vũ khí chính===
A7V được trang bị 6 súng máy [[MG08]] 7.92 &nbsp;mm và một khẩu pháo [[Maxim-Nordenfelt]] 57 &nbsp;mm được đặt ở phía trước. Một số những khẩu pháo này được sản xuất từ Anh và bị thu giữ ở Bỉ trong những năm đầu của cuộc chiến, một vài khẩu khác thu được ở Nga năm 1918 và bao gồm một vài phiên bản do Nga sản xuất.
 
===Đạn dược===
Khoảng 40 đến 60 dây đạn, mỗi dây 250 viên, chúng được đựng trong 180 hộp cho súng chính, chia tỉ lệ 90:54:36 cho đạn dự trữ, chống tăng và nổ. Trong chiến đấu, khẩu pháo chính bắn tới 300 viên.
 
Phiên bản A7V cái được trang bị 2 súng máy thay cho pháo chính. Người ta tin rằng chỉ A7V có số khung 501 được nhìn thấy trong chiến đấu như một xe tăng cái trước khi bị biến đổi để phù hợp với pháo 57 &nbsp;mm.
 
 
 
 
== Lịch sử chiến đấu ==
[[FileTập tin:Bundesarchiv Bild 183-P1013-316, Westfront, deutscher Panzer in Roye.jpg|thumb|right|Một chiếc A7V ở [[Roye, Somme|Roye]] ngày 21 tháng 3 năm 1918]]
===Trận kênh đào St. Quentin===
A7V lần đầu tiên được sử dụng vào ngày 21 tháng 3 năm 1918. 5 chiếc của nhóm ''Abteilung I'' dưới sự chỉ huy của Hauptmann Greiff đã được triển khai ở phía bắc [[kênh đào St. Quentin]]. 3 chiếc A7V bị hư động cơ trước khi bước vào trận chiến; 2 chiếc còn lại đã ngăn chặn một nhóm lính Anh vượt qua khu vực, và đó chỉ là một trận chiến nhỏ.
Hàng 80 ⟶ 77:
bị 2 khẩu QF-6 pounder) gần [[Villers-Bretonneux]]. Suốt trận đấu, cả hai bên đều bị thiệt hại. Theo như chỉ huy xe tăng, thiếu úy Frank Michell, những chiếc Mark IV cái bị hạ gục sau khi bị bắn bởi loạt đạn xuyên giáp và không thể gây ra bất cứ thiệt hại nào cho những chiếc A7V do chúng chỉ được trang bị súng máy. Mitchell sau đó tấn công xe tăng cầm đầu quân Đức, được chỉ huy bởi thiếu úy Wilhelm Biltz,
bằng khẩu 6-pounder gắn trên xe ông đã hạ gục chiếc A7V này. Ông bắn 3 phát và giết chết 5 lính Đức khi họ cố gắng giải cứu chiếc xe. Sau đó ông tiếp tục tấn công bộ binh bằng những loạt đại bác. Hai chiếc A7V còn lại rút lui. Khi xe tăng của Mitchell đang rút lui, 7 chiếc xe tăng hạng nhẹ cũng tham gia tấn công. 4 trong số chúng bị hạ trong trận chiến và không rõ là chúng có tấn công những chiếc A7V đang rút lui của Đức hay không. Xe tăng của Mitchell bị đứt xích gần cuối trận chiến và bị bỏ lại. Những chiếc A7V bị hư hại được sửa chữa bởi quân Đức sau này.
[[FileTập tin:Tank-Mephisto-Queensland-Museum.jpg|thumb|right|Chiếc A7V còn lại duy nhất tên Mephisto được trưng bày ở bảo tàng [[Queensland]], [[Brisbane]], [[Australia]]]]
3 biệt đội gồm 5 xe tăng mỗi đội ở Viller-Bretonneux dẫn đầu bốn sư đoàn quân Đức được ủy thác trên một chiến tuyến dài 4 dặm. Một chiếc không thể khởi động, tuy nhiên 40 chiếc còn lại đã đạt được một số thành công nhất định, và theo ghi chép của quân Anh, 4 hàng của họ đã bị phá vỡ bởi những chiếc xe tăng. 2 chiếc A7V bị sụt hố và một số khác bị trục trặc máy móc và vũ khí. Sau một cuộc đột kích, ba chiếc rơi vào tay quân Đồng minh. Một chiếc không thể sự dụng và bị loại, một chiếc được sử dụng để thử đạn bởi quân Pháp sau này, và chiếc thứ ba cuối cùng được phục chế bởi lính Australia.
 
Hàng 86 ⟶ 83:
Tháng 5, A7V được sử dụng trong một cuộc tấn công quân pháp gần Soissons, suốt [[trận sông Aisne lần thứ ba]] những chiếc xe tăng này đã không thể băn qua một chiến hào rộng được mệnh danh là [[Dardanelles]].
 
Vào tháng 7, suốt [[trận sông Marne lần thứ hai]] ở [[Rheims]], quân Đức dùng 8 chiếc A7V và 12 chiếc [[Mark IV]] để chống lại chiến tuyến quân Pháp. Kết quả là 10 chiếc [[Mark IV]] bị loại và số A7V vẫn còn nguyên.
 
Lần sử dụng cuối cùng trong [[chiến tranh thế giới thứ nhất|thế chiến thứ nhất]] tuy ít, nhưng A7V đã rất thành công trong những hoạt động vào tháng 10 năm 1918 tại [[Iwuy]].
Hàng 104 ⟶ 101:
| 501
| ''Gretchen''
| Chỉ được trang bị súng máy và được lắp đặt một pháo 57 &nbsp;mm vào cuối năm 1918
| Bị bỏ lại ở Saint-Cécile (Bỉ), được cho là đã bị bỏ lại vị trí bởi đồng đội năm 1919
|-
Hàng 208 ⟶ 205:
 
==Các biến thể==
[[FileTập tin:A7V-U.jpg|thumb|right|Một chiếc A7V-U]]
A7V-U: (''umlaufende Ketten''="chuỗi bánh xích quay tròn"). Một thử nghiệm tái sản xuất khả năng chạy ở tất cả các địa hình của xe tăng Anh, A7V-U vẫn dựa trên khung Holt nhưng có thân hình thoi và bánh xích toàn thân. Buồng lái giống nhưng to hơn, trên một chiếc A7V và đặt trên đỉnh của phần trước thân. 2 pháo 57 &nbsp;mm được trang bị hai bên hông giống kiểu Anh, mẫu đầu tiên được lắp ráp vào tháng 6 năm 1918, và bản thử đã cho thấy nó bị nặng đầu và có tâm quá cao, ngoài ra, khối lượng lên đến 40 tấn còn làm cho nó trở nên mất linh hoạt. Sau khi giải quyết được các vấn đề trên, 20 chiếc đã được đặt hàng vào tháng 9 năm 1918, cùng tháng đó tất cả các thiết kế được dừng lại, tập trung cải thiện thiết kế, tuy nhiên chiến tranh đã kết thúc nên không có chiếc nào được sản xuất.
 
30 loại khung đã được sang tên để hoàn thành như ''Überlandwagen'' hỗ trợ vận chuyển, nhưng hầu hết không được hoàn thành trước khi kết thúc chiến tranh.
Hàng 217 ⟶ 214:
 
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
*{{cite book | last = Foley | first = John | authorlink = | title = A7V Sturmpanzerwagen | publisher = Profile Publications | year = 1967 | location = | pages = | url = | doi = | id = | isbn = }}
*{{citechú bookthích sách | last = FossFoley | first = Christopher F.John | authorlink = | title = TheA7V Encyclopedia of Tanks and Armoured Fighting VehiclesSturmpanzerwagen | publisher = SpellmountProfile Publications | year = 20031967 | location = | pages = 232 | url = | doi = | id = | isbn = 1-86227-188-7}}
*{{citechú bookthích sách | last = ZalogaFoss | first = SteveChristopher F. | authorlink = | title = GermanThe PanzersEncyclopedia 1914–18of Tanks and Armoured Fighting Vehicles | publisher = [[Osprey Publishing]]Spellmount | year = 20062003 | location = | pages = 232 | url = | doi = | id = | isbn = 1-8417686227-945188-27}}
*{{citechú bookthích sách | last = FoleyZaloga | first = JohnSteve | authorlink = | title = A7VGerman SturmpanzerwagenPanzers 1914–18 | publisher = Profile[[Osprey PublicationsPublishing]] | year = 19672006 | location = | pages = 232 | url = | doi = | id = | isbn = 1-84176-945-2}}