Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Toronto”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Alphama Tool, General fixes
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 58:
|chú thích =
}}
'''Toronto''' (phát âm [[tiếng Anh]]: {{IPAc-en|t|ɵ|ˈ|r|ɒ|n|t|oʊ}}, {{IPAc-en|local|ˈ|t|r|ɒ|n|oʊ}}) là thành phố đông dân nhất tại [[Canada]] và là tỉnh lỵ của tỉnh [[Ontario]]. Thành phố nằm ở miền Nam Ontario, tại bờ phía tây bắc của [[hồ Ontario]]. Lịch sử Toronto bắt đầu vào cuối thế kỷ 18 khi Vương thất Anh Quốc mua đất từ người bản địa. Khu định cư được thiết lập tại đây mang tên là York, được Phó Thống đốc John Graves Simcoe chọn làm thủ đô của [[Thượng Canada]]. Thành phố bị cướp phá trong [[Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc (1812)|Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc]] năm 1812. Năm 1834, York trởatrở thành một thành phố và đổi tên sang Toronto. Thành phố bị thiệt hại do hai đại hỏa hoạn vào năm 1849 và 1904. Từ năm 1954, thành phố có những đợt mở rộng ranh giới thông qua hợpsáp nhất với các đô thị xung quanh, lần gần đây nhất là vào năm 1998.
{{Bài cùng tên}}
{{đang viết}}
'''Toronto''' (phát âm tiếng Anh: {{IPAc-en|t|ɵ|ˈ|r|ɒ|n|t|oʊ}}, {{IPAc-en|local|ˈ|t|r|ɒ|n|oʊ}}) là thành phố đông dân nhất tại [[Canada]] và là tỉnh lỵ của tỉnh [[Ontario]]. Thành phố nằm ở miền Nam Ontario, tại bờ phía tây bắc của [[hồ Ontario]]. Lịch sử Toronto bắt đầu vào cuối thế kỷ 18 khi Vương thất Anh Quốc mua đất từ người bản địa. Khu định cư được thiết lập tại đây mang tên là York, được Phó Thống đốc John Graves Simcoe chọn làm thủ đô của [[Thượng Canada]]. Thành phố bị cướp phá trong [[Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc (1812)|Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc]] năm 1812. Năm 1834, York trởa thành một thành phố và đổi tên sang Toronto. Thành phố bị thiệt hại do hai đại hỏa hoạn vào năm 1849 và 1904. Từ năm 1954, thành phố có những đợt mở rộng ranh giới thông qua hợp nhất với các đô thị xung quanh, lần gần đây nhất là vào năm 1998.
 
Theo điều tra nhân khẩu Canada năm 2011, thành phố có 2,6 triệu dân cư, là thành phố đông dân thứ năm tại [[Bắc Mỹ]]. Tuy nhiên, đến năm 2012, chính quyền thành phố công bố ước tính dân số là 2.791.140, khiến truyền thông đưatường tinthuật rằng Toronto là thành phố đông dân thứ tư tại Bắc Mỹ và là thành phố [[Great Lakes Megalopolis|Hồ Lớn]] đông dân nhất, vượt qua [[Chicago]].<ref>{{chú thích web|author=Friday, April 18, 2014 7:40 PM EDT Facebook Twitter RSS |url=http://www.thestar.com/news/city_hall/2013/03/05/torontos_population_overtakes_chicago.html |title=Toronto’s population overtakes Chicago &#124; Toronto Star |publisher=Thestar.com |date=March 5, 2013 |accessdate=April 18, 2014}}</ref><ref>{{chú thích web|last=Peat |first=Don |url=http://www.torontosun.com/2013/03/05/toronto-now-fourth-largest-city-in-north-america |title=Toronto now fourth largest city in North America &#124; Toronto & GTA &#124; News |publisher=Toronto Sun |accessdate=April 18, 2014}}</ref> Khu vực đại đô thị thống kê (CMA) có dân số là 5.583.064,<ref name="SC2011cma">{{SCref |unit=cma |535}}</ref> và khu vực Đại Toronto (GTA) có dân số là 6.054.191 theo điều tra nhân khẩu năm 2011.<ref name=2011censusdiv>{{chú thích web | url = http://www12.statcan.gc.ca/census-recensement/2011/dp-pd/hlt-fst/pd-pl/Table-Tableau.cfm?LANG=Eng&T=702&PR=35&S=51&O=A&RPP=25| title = Population and dwelling counts, for population centres, 2011 and 2006 censuses|work=[[Statistics Canada]], 2011 Census of Population|date = February 8, 2011|accessdate =February 8, 2007}}</ref> Toronto nằm tại trung tâm của khu vực Đại Toronto, và của khu vực dân cư đông đúc [[Golden Horseshoe]] tại miền Nam Ontario. Dân cư thế giới và quốc tế của thành phố<ref name=diverse_city>{{chú thích sách|last = Flew|first = Janine|coauthors = Humphries, Lynn; Press, Limelight; McPhee, Margaret|title = The Children's Visual World Atlas|publisher=Fog City Press|year = 2004|location = Sydney, Australia|page = 76|url =|id =|isbn = 1-74089-317-4 }}</ref> phản ánh vai trò của Toronto là một điểm đến quan trọng của những người nhập cư tới Canada.<ref name="toronto_diversity" /> Toronto là một trong những thành phố đa dạng nhất trên thế giới về tỷ lệ dân cư không sinh tại địa phương, với khoảng 49% dân số sinh bên ngoài Canada.<ref name=diverse_city/><ref name="toronto_diversity">{{chú thích web|url=http://www.cic.gc.ca/english/policy/fed-prov/can-ont-toronto-mou.html|title=Canada-Ontario-Toronto Memorandum of Understanding on Immigration and Settlement (electronic version)|author=Citizenship and Immigration Canada|date=September 2006|accessdate=March 1, 2007|archiveurl=http://web.archive.org/web/20070311043934/http://www.cic.gc.ca/english/policy/fed-prov/can-ont-toronto-mou.html|archivedate=August 25, 2008}}</ref><ref name=facts_of_Toronto>{{chú thích web|url = http://classic-web.archive.org/web/20070929162756/http://allabout-toronto.com/|title = City of Toronto, Ontario|accessdate =July 6, 2007}}</ref>
 
Toronto là thủ đô thương nghiệp của Canada, là nơi đặt trụ sở của sở giao dịch chứng khoán Toronto và năm ngân hàng lớn nhất toàn quốc. Những khu vực kinh tế hàng đầu trong thành phố là tài chính, dịch vụ doanh nghiệp, viễn thông, hàng không vũ trụ, giao thông, truyền thông, nghệ thuật, xuất bản, sản xuất phần mềm, nghiên cứu y tế, giáo dục, du lịch và, và kỹ thuật.<ref name=TorontoEconomy>[http://www.toronto.ca/ City of Toronto] (2007) – [http://www.toronto.ca/invest-in-toronto/tor_overview.htm Toronto economic overview], [http://www.toronto.ca/invest-in-toronto/clusteroverview.htm Key industry clusters] và [http://www.toronto.ca/invest-in-toronto/pdf/economy.pdf A Diversified Economy]{{dead link|date=February 2012}}. Retrieved 2007-03-01.</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.toronto.ca/business_publications/tocompetes.htm|title=Toronto Competes|author=ICF Consulting|date=February 2000|accessdate=March 1, 2007}}{{dead link|date=February 2012}}</ref> Toronto được GaWC xếp hạng là một [[Thành phố toàn cầu|thành phố toàn cầu hạng alpha]] và đứng hàng đầu thế giới về Chỉ số trung tâm tài chính toàn cầu.<ref>"[http://mail.architexturez.net/+/In-Enaction/archive/msg00800.shtml What makes a global city?]", (2007)</ref><ref>[http://www.citymayors.com/economics/financial-cities.html Citymayors.com], ''[[Toronto Star]]'' (2004). Retrieved 2007-07-08.</ref> Toronto cũng luôn được xếp là một trong những thành phố dễ sống nhất theo xếp hạng của Đơn vị tin tức kinh tế học và Điều tra chất lượng sinh hoạt Mercer.<ref name=best>{{cite news|url=http://www.cnn.com/2005/WORLD/europe/10/04/eui.survey/index.html|title=Vancouver is 'best city to live'|publisher=CNN|date=October 5, 2005|accessdate=March 5, 2007}}</ref><ref name=quality>{{chú thích web|url=http://www.mercerhr.com/attachment.dyn?idContent=1216315&filePath=/attachments/English/QOL_Survey2006_table.pdf|format=PDF|title=Mercer 2006 Quality of Living Survey|author=Mercer Human Resource Consulting|year=2006|accessdate=March 5, 2007}}</ref>
 
== Lịch sử ==
Khi những người châu Âu lần đầu đến địa điểm mà nay là Toronto, người [[Iroquois]] cư trú tại khu vực lân cận,<ref>{{chú thích sách|last=Myrvold|first=Myrvold|title=The people of Scarborough: a history|year=1997|publisher=City of Scarborough Public Library Board|location=Toronto|isbn=0968308600|pages=12–18}}</ref> lúc đó họngười Iroquois đã thay thế [[người Wyandot]] vốn chiếm giữ khu vực trong hàng thế kỷ trước khoảng 1500.<ref>Xem R. F. Williamson, ed., ''Toronto: An Illustrated History of its First 12,000 Years'' (Toronto: James Lorimer, 2008), ch. 2, phần đề cập đến di chỉ Mantle.</ref> Tên gọi ''Toronto'' có bắt nguồn từ ''tkaronto'' trong tiếng Iroquois, nghĩa là "nơi những cái cây mọc trong nước".<ref name=etymology>{{chú thích web|url=http://geonames.nrcan.gc.ca/education/toronto_e.php|title=The real story of how Toronto got its name|publisher=[[Natural Resources Canada]] (2005)|accessdate=December 8, 2006}}</ref> Điều này ám chỉ đến phần cực bắc của nơi mà hiện là [[hồ Simcoe]], nơi người Huron trồng cây nhỏ để quây cá. Một tuyến đường chuyển tải từ hồ Ontario đến [[hồ Huron]] chạy qua điểm này, khiến tên gọi được sử dụng phổ biến. Trong thập niên 1660, người Iroquois thiết lập hai làng trong khu vực mà nay là Toronto, Ganatsekwyagon bên bờ sông Rouge và Teiaiagon bên bờ sông Humber. Đến năm 1701, [[người Mississauga]] thay thế người Iroquois, người Iroquois từ bỏ khu vực Toronto vào cuối [[Các cuộc chiến tranh Hải ly]].<ref>{{chú thích sách|last=Schmalz|first=Peter S.|title=The Ojibwa of Southern Ontario|year=1991|publisher=University of Toronto Press{{!}}|location=Toronto|isbn=978-0802067784}}</ref>
 
Năm 1750, các thương nhân người Pháp lập nên pháo đài Rouillé tại nơi mà nay là khu vực Triển Lãm, song từ bỏ vào năm 1759.<ref name=rouille>[http://schools.tdsb.on.ca/jarvisci/toronto/rouille.htm Fort Rouillé], Jarvis Collegiate Institute (2006). Truy cập 2006-12-08.</ref> Trong [[Cách mạng Mỹ]], khu vực tiếp nhận một dòng người Anh định cư trung thành với Đế quốc chạy đến các vùng đất hoang ở phía bắc hồ Ontario. Năm 1787, Anh Quốc dàn xếp mua đất với người Mississauga, do đó củng cố trên một phần tư triệu acres (1000&nbsp;km²) đất tại khu vực Toronto.<ref name=British>[http://www.toronto.ca/culture/history/history-natives-newcomers.htm Natives and newcomers, 1600–1793], City of Toronto (2006). Truy cập 2006-12-08.</ref>
 
Năm 1793, Thống đốc [[John Graves Simcoe]] thiết lập đô thị [[York, Upper Canada|York]] trên khu định cư sẵn có, đặt tên theo [[Vương tử Frederick, Công tước xứ York và Albany]]. Simcoe chọn York để thay thế [[Niagara-on-the-Lake|Newark]] trong vai trò thủ đô của [[Thượng Canada]],<ref>{{chú thích web|url=http://www.ontario.ca/en/your_government/004690|title=History of Ontario's Legislative Buildings|publisher=Government of Ontario
Hàng 75 ⟶ 73:
 
[[Tập tin:Toronto 1894large.jpg|left|thumb|Bản đồ Toronto, 1894]]
Năm 1813, trong khuôn khổ [[Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc (1812)|Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc]], [[trận York]] kết thúc với kết quả lực lượng Hoa Kỳ chiếm và cướp bóc thị trấn.<ref>{{chú thích web|url=http://www.udata.com/users/hsbaker/york.htm|archiveurl=http://web.archive.org/web/20070820093114/http://www.udata.com/users/hsbaker/york.htm|archivedate=August 20, 2007|title=Battle of York|accessdate=July 10, 2007}}</ref> Binh sĩ Hoa Kỳ phá hủy hầu hết phái đài York và phóng hỏa tòa nhà nghị viện trong thời gian chiếm đóng. Việc Hoa Kỳ cướp phá York là một động cơ chính khiến quân Anh [[Trận đốt cháy Washington|đốt cháy Washington]] sau đó. York được hợp nhất tổ chức thành thành phố Toronto vào ngày 6 tháng 3 năm 1834.
 
Dân số Toronto đương thời chỉ có 9.000, trong đó có những nô lệ da đen chạy trốn, một số người trong số đó do những người trung thành với Đế quốc đưa đến.<ref name=black>[http://www1.toronto.ca/wps/portal/contentonly?vgnextoid=53c9757ae6b31410VgnVCM10000071d60f89RCRD&vgnextchannel=6c21226b48c21410VgnVCM10000071d60f89RCRD Black history at the City of Toronto Archives], City of Toronto (2009). Truy cập 2009-03-13.</ref> Chế độ nô lệ bị cấm hoàn toàn tại Thượng Canada vào năm 1834. Chính trị gia cải lương [[William Lyon Mackenzie]] trở thành thị trưởng đầu tiên của Toronto và lãnh đạo [[Nổi dậy Thượng Canada]] vào năm 1837 nhằm chống chính phủ thực dân Anh Quốc song không thành công. Thành phố phát triển nhanh chóng suốt thời gan còn lại của thế kỷ 19, với vị thế là một điểm đến chính của những người nhập cư tới Canada. Dòng dân nhập cư đáng kể đầu tiên xuất hiện khi [[Nạn đói Ireland (1845–1852)|nạn đói khoai tây Ireland]] đưa một lượng lớn người Ireland đến thành phố, một số người trong đó chỉ cư trú tạm thời tại Toronto và hầu hết họ là tín đồ [[Công giáo La Mã]]. Đến năm 1851, dân cư sinh tại Ireland trở thành dân tộc đơn lẻ lớn nhất trong thành phố. Những người Ireland nhập cư theo Tin Lành có số lượng ít hơn, cộng đồng này được dân cư người Scotland và Anh cư trú từ trước hoan nghênh, khiến Orange Order có ảnh hưởng đáng kể và kéo dài đối với xã hội Toronto.
 
Toronto từng hai lần là thủ đô của [[tỉnh Canada]] thống nhất: lần đầu từ năm 1849 đến năm 1852, sau bất ổn tại [[Montréal]], và trong giai đoạn 1856–1858.<ref>{{chú thích web|url=http://www.statoids.com/uca.html |title=Canada Provinces |publisher=Statoids.com |accessdate=April 17, 2010}}</ref> Do là thủ đô của Thượng Canada từ năm 1793, Toronto trở thành tỉnh lị của tình Ontario sau khi tỉnh này được hình thành chính thức vào năm 1867. Do có vị thế là tỉnh lị, thành phố là nơi đặt tòa nhà chính phủ, dinh thự của phó vương đại diện cho quyền lực của vương thất tại Ontario.
 
[[Tập tin:Yonge Street crowd celebrating the end of the Boer War.jpg|thumb|left|Phố Yonge vào năm 1900]]
Trong thế kỷ 19, một hệ thống cống quy mô lớn được xây dựng, và các phố được chiếu sáng thường xuyên bằng đèn khí. Các tuyềntuyến đường sắt đường dài được xây dựng, trong đó một tuyến được hoàn thành vào năm 1854 liên kết Toronto với các hồ thượng trong Ngũ Đại Hồ. Đường sắt xuất hiện làm tăng mạnh số người nhập cư đến, thương nghiệp và công nghiệp, cùng với các thuyền hơi nước và thuyền hai buồm hồ Ontario cập cảng từ trước góp phần biến Toronto trở thành một cửa ngõ lớn kết nối thế giới với vùng nội địa của lục địa Bắc Mỹ. Toronto trở thành trung tâm cất rượu cồn lớn nhất tại Bắc Mỹ; nhà máy cất rượu Gooderham and Worts trở thành nhà máy whiskey lớn nhất thế giới vào thập niên 1860. Phát triển hạ tầng cảng và đường sắt tạo thuận lợi cho xuất khẩu gỗ và nhập khẩu than Pennsylvania. Đại hỏa hoạn năm 1904 phá hủy một phần lớn khu trung tâm Toronto, song thành phố nhanh chóng tái thiết. Đại hỏa hoạn khiến các luật an toàn cháy nổi thêm nghiêm ngặt và phát triển sở cứu hỏa của thành phố.
 
Thành phố tiếp nhận các nhóm nhập cư mới bắtBắt đầu vàotừ cuối thế kỷ 19 cho đến đầu thế kỷ 20, thành phố tiếp nhận các nhóm nhập cư mới, đặc biệt là người Đức, người Pháp, người Ý, và người Do Thái đến từ Đông Ấu. Tiếp nối ngay sau họ là những người Hoa, người Nga, người Ba Lan, và những người nhập cư Đông Âu khác. Giống như người Ireland đến từ trước, nhiều người nhập cư sống trong những khu vực tồi tàn đông đúc. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, song cho đến thập niên 1920, dân số và tầm quan trọng kinh tế của Toronto tại Canada vẫn đứng thứ hai sau [[Montréal]]. Tuy nhiên, đến năm 1934 thì [[sở giao dịch chứng khoán Toronto]] trở thành sở giao dịch chứng khoán lớn nhất toàn quốc.
 
Sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], những người tị nạn hậu quả chiến tranh từ châu Âu và Trung Quốc đến Toronto để tìm kiếm công việc, cũng như các lao động xây dựng, chủ yếu là từ Ý và Bồ Đào Nha. Sau khi bãi bỏ những chính sách nhập cư dựa trên chủng tộc vào cuối thập niên 1960, người nhập cư đến Toronto từ khắp nơi trên thế giới. Dân số Toronto tăng lên trên một triệu vào năm 1951 khi ngoại ô hóa quy mô lớn bắt đầu, và tăng gấp đôi lên hai triệu vào năm 1971. Đến thập niên 1980, Toronto vượt qua Montréal để trở thành thành phố đông dân nhất và trung tâm kinh tế chủ yếu của Canada. Trong thời gian này, một phần là do tính chất bất xác định chính trị do sự nổi lên của phong trào chủ quyền Québec, nhiều công ty quốc gia và đa quốc gia chuyển trụ sở chính của họ ra khỏi Montréal đến Toronto và các thành phố ở [[miền Tây Canada]].<ref>[http://www.findarticles.com/p/articles/mi_qa3683/is_200201/ai_n9069631/pg_1 Westward ho? The shifting geography of corporate power in Canada]{{dead link|date=February 2012}}, Journal of Canadian Studies (2002). Truy cập 2007-01-14.</ref>
 
Năm 1954, thành phố Toronto và 12 đô thị xung quanh liên hiệp thành một chính quyền khu vực được gọi là [[Metropolitan Toronto]].<ref>[http://www.e-laws.gov.on.ca/html/repealedstatutes/english/elaws_rep_statutes_90m62_e.htm Municipality of Metropolitan Toronto Act], Government of Ontario (2000). Truy cập 2006-12-29.</ref> Bùng nổ kinh tế hậu chiến dẫn đến phát triển ngoại ô nhanh chóng, và người ta cho là một chiến lược sử dụng đất phối hợp và chia sẻ các dịch vụ sẽ tạo ra hiệu quả lớn hơn cho khu vực. Chính quyền khu vực đô thị bắt đầu quản lý những dịch vụ vượt qua ranh giới các đô thị, trong đó có xa lộ, cảnh sát, nước và giao thông công cộng. Một nửa thế kỷ sau đại hỏa hoạn năm 1904, thành phố lại chịu tai họa khi [[bão Hazel]] đem theo gió mạnh và lũ quét. Trong khu vực Toronto có 81 người thiệt mạng và gần 1.900 gia đình bị mất nhà, bão gây thiệt hại kinh tế 25&nbsp;triệu $.<ref name=hurricane>[http://www.collectionscanada.gc.ca/sos/002028-3200-e.html SOS! Canadian Disasters] Library and Archives Canada (2006). Truy cập 2008-12-19.</ref>
Hàng 101 ⟶ 99:
|accessdate=February 14, 2008}}</ref> Ranh giới của Toronto giới hạn bởi là hồ Ontario ở phía nam, sông Etobicoke và tỉnh lộ 427 ở phía tây, đại lộ Steeles ở phía bắc và sông Rouge cùng đường Scarborough-Pickering Townline ở phía đông.
 
Thành phố bị ba sông cùng nhiều chi lưu của chúng cắt ngang: [[sông Humber (Ontario)|Humbersông RiverHumber]] ở cực tây và [[sông Don (Ontario)|sông Don]] ở phía đông khu trung tâm gần cảng Toronto, và sông Rouge tạo thành ranh giới phía đông của thành phố. Cảng Toronto được hình thành một cách tự nhiên nhờ trầm tích tích tụ từ các dòng nước trong hồ tạo nên quần đảo Toronto. Nhiều sông suối chảy từ phía bắc hướng đến hồ bào mòn địa hình thành những vùng khe núi lớn có cây cối rậm rạp, tạo ra các địa điểm lý tưởng để hình thành những công viên và đường tản bộ tiêu khiển. Tuy nhiên, các khe núi cũng gây trở ngại cho thiết kế ô vuông của thành phố, dẫn đến việc nhiều đại lộ kết thúc ở một bên khe núi và tiếp tục ở bên khác. Những khe núi sâu tỏ ra hữu dụng trong việc thoát nước khi có mưa lớn.
 
Trong [[Thời kỳ băng hà cuối cùng|kỷ băng hà cuối]], phần hạ của Toronto ở bên dưới hồ băng Iroquois. Ngày nay, một loạt vách đứng đánh dấu ranh giới cũ của hồ. Mặc dù có những khe núi sâu, Toronto không có địa hình đối núi đáng kể, song độ cao tăng dần khi ra xa hồ. Độ cao biến đổi từ {{convert|75|m|ft|0}} trên mực nước biển tại bờ hồ Ontario đến {{convert|209|m|ft|0|abbr=on}} trên mực nước biển gần [[Đại học York]] ở phần cực bắc của thành phố tại nơi giao cắt giữa phố Keele và đại lộ Steeles.<ref>{{chú thích web
Hàng 110 ⟶ 108:
|accessdate=December 6, 2009}}</ref> Phần lớn diện tích đất liền bờ hồ hiện nay đối diện với cảng Toronto được lấp đất nhân tạo vào cuối thế kỷ 19, phần lớn [[Port Lands]] nằm lân cận cũng là do lấp đất. Quần đảo Toronto nguyên là một mũi đất song một cơn bão vào năm 1858 đã cắt đứt kết nối của nó với đại lục, tạo ra một kênh mà sau này được các tàu sử dụng để tiếp cận bến tàu.
 
Toronto có khí hậu lục địa ẩm ([[phân loại khí hậu Köppen|Köppen]]: Dfa/Dfb), với mùa hè ấm và ẩm và mùa đông lạnh. Thành phố trải qua bốn mùa riêng biệt, chênh lệch nhiệt độ giữa các ngày là đáng kể, đặc biệt là khi thời tiết lạnh. Do đô thị hóa và nằm sát hồ, Toronto có chênh lệch nhiệt độ ngày đêm khá thấp. Không gian đô thị đông đúc khiến cho ban đêm ấm hơn quanh năm và trong mùa đông không lạnh như khu vực xung quanh (đặc biệt là ở phía bắc của thành phố); tuy nhiên, thành phố có thể mát hơn đáng kể vào phần nhiều chiều mùa xuân và đầu hè do ảnh hưởng của gió thổi từ hồ. Những ảnh hưởng thủy vực quy mô nhỏ khác lên khí hậu Toronto gồm có tuyết hiệu ứng hồ, sương mù, và [[trễ mùa]].
 
Trong mùa đông, Toronto đôi khi bất chợt có nhiệt độ dưới {{convert|-10|C|F|0|abbr=on}}, thường khiến cảm thấy lạnh hơn do phong hàn. Bão tuyết, tỉnhthỉnh thoảng kèm với đóng băng và mưa, có thể phá hỏng lịch trình làm việc và lữ hành, tuyết rơi thành đống có thể xuất hiện từ tháng 11 đến giữa tháng 4. Tuy nhiên, cũng có thể xuất hiện những khoản thời gian thời tiết ôn hòa trong hầu hết mùa đông, làm tan những đóng tuyết. Những tháng mùa hè có đặc trưng là thời tiết ẩm kéo dài, nhiệt độ thường dao động trong khoảng {{convert|23|to|31|C|F|0|abbr=on}}, nhiệt độ ban ngày thỉnh thoảng vượt quá {{convert|35|C|F|0|abbr=on}} kémkèm theo độ ẩm cao khiến cảm thấy ngột ngạt. Mùa xuân và mùa thu thường có nhiệt độ ôn hòa hoặc mát, các giai đoạn khô và ẩm xen kẽ.
 
Toronto có lượng mưa phân bố kha đều trong năm, song mùa hè thường là mùa mưa nhiều nhất, nhất là trong các cơn dông. Có những giai đoạn thời tiết khô, song tình hình hiếm khi giống như hạn hán. Lượng [[giáng thủy]] trung bình năm là khoảng {{convert|831|mm|in|1|abbr=on}}, với lượng tuyết trung bình năm là khoảng {{convert|122|cm|in|0|abbr=on}}. Toronto có trung bình 2.066 giờ nắng mỗi năm, hay 45% số giờ ban ngày, biến động giữa 28% trong tháng 12 đến 60% trong tháng 7.<ref name = annexe />
{{Toronto weatherbox}}
 
== Kinh tế ==
[[Tập tin:Toronto - ON - CN Tower bei Nacht2.jpg|thumb|[[Tháp CN]] là điểm du lịch chính tại Toronto.]]
Toronto là một trung tâm quốc tế về kinh doanh và tài chính, thường được xem là thủ đô tài chính của Canada. Các ngân hàng và các hãng môi giới tập trung cao độ tại Bay Street, tại Financial District. [[Sở giao dịch chứng khoán Toronto]] là sở giao dịch chứng khoán lớn thứ bảy trên thế giới theo tư bản hóa thị trường (2006). Năm thể chế tài chính lớn nhất của Canada, được gọi chung là Big Five, có các văn phòng quốc gia tại Toronto.<ref name="TorontoEconomy" />
 
Thành phố là một trung tâm quan trọng đối với truyền thông, xuất bản, viễn thông, công nghệ thông tin và sản xuất phim; là nơi đặt trụ sở của [[Bell Media]], [[Rogers Communications]], và [[Torstar]]. Các công ty nổi bật khác của Canada trong khu vực Đại Toronto gồm có [[Magna International]], [[Celestica]], [[Manulife Financial]], [[Sun Life Financial]], và [[Hudson's Bay Company]], và các công ty và hãng điều hành khách sạn lớn như [[Four Seasons Hotels and Resorts|Four Seasons Hotels]] và [[Fairmont Hotels and Resorts]].
 
Mặc dù phần lớn các hoạt động sản xuất trong khu vực diễn ra bên ngoài giới hạn của thành phố, song Toronto thiếp tục là một điểm bán buôn và phân phối của khu vực công nghiệp. Vị trí chiến lược của thành phố khi nằm dọc theo [[ơHànhHành lang thành phố Quebec-Windsor]] và có các liên kết đường bộ và đường sắt hỗ trợ cho các ngành sản xuất xe mô tô, gang, thép, thực phẩm, máy móc, hóa chất và giấy. Việc hoàn tất hải đạo Saint Lawrence vào năm 1959 khiến các tàu có thể tiếp cận Ngũ Đại Hồ từ Đại Tây Dương.
 
==Nhân khẩu==
Hàng 184 ⟶ 182:
Sự đa dạng này được phản ánh qua các khu phố dân tộc của Toronto, trong đó có phố Trung Hoa, phố Corso Italia, phố Hy Lạp, Kensington Market, phố Hàn, Tiểu Ấn Độ, Tiểu Ý, Tiểu Jamaica, Tiểu Bồ Đào Nha và Roncesvalles.
 
Năm 2011, tôn giáo được tường trình phổ biến nhất tại Toronto là [[Cơ Đốc giáo]], 54,1% dân số thành phố gắn bó với nhóm tôn giáo này. 28,2% dân số là tín đồ Công giáo La Mã, tiếp đến là Tin Lành (11,9%), Cơ Đốc Chính thống (4,3%), và các giáo phái Cơ Đốc khác (9,7%). Thành phố có một số lượng đáng kể các tín đồ Cơ Đốc [[Phong trào Giám Lý|Giám Lý]], thỉnh thoảng được gọi là Roma của Giám Lý. Các tôn giáo khác hiện diện tỏngtrong thành phố gồm có Hồi giáo (8,2%), Ấn Độ giáo (5,6%), Do Thái giáo (3,8%), Phật giáo (2,7%), và [[đạo Sikh|Tích Khắc giáo]] (0,8%). Những người không liên kết tôn giáo chiếm 24,2% dân số Toronto.<ref name="www12.statcan.gc.ca"/>
 
Tiếng Anh là ngôn ngữ chiếm ưu thế trong dân cư Toronto, song nhiều ngôn ngữ khác có số lượng người nói bản ngữ ở mức đáng kể.<ref name=lan3>[http://www12.statcan.ca:80/english/census06/data/topics/RetrieveProductTable.cfm?ALEVEL=3&APATH=3&CATNO=&DETAIL=0&DIM=&DS=99&FL=0&FREE=0&GAL=0&GC=99&GK=NA&GRP=1&IPS=&METH=0&ORDER=1&PID=89189&PTYPE=88971&RL=0&S=1&SUB=0&ShowAll=No&StartRow=1&Temporal=2006&Theme=70&VID=0&VNAMEE=&VNAMEF=&GID=838003 Various Languages Spoken – Toronto] [[Census metropolitan area|CMA]], Statistics Canada (2006); truy cập 9 tháng 9 năm 2009.</ref> Các phương ngôn tiếng Hoa và tiếng Ý là những ngôn ngữ được nói phổ biến thứ nhì và thứ ba trong công việc.<ref name=lan>[http://www12.statcan.ca/english/census01/products/highlight/LanguageWork/Page.cfm?Lang=E&Geo=CMA&View=2&Table=1&Code=535&Sort=2&B1=&B2=1 Language used at work by mother tongue in Toronto] [[Census metropolitan area|CMA]], Statistics Canada (2001). Truy cập 2006-12-05.</ref><ref name=lang2>[http://www12.statcan.ca/english/census01/products/highlight/LanguageWork/Page.cfm?Lang=E&Geo=CSD&View=4&Code=3520005&Table=1&StartRec=1&Sort=5&B1=Toronto&B2=1 Language used at work by mother tongue (City of Toronto)], Statistics Canada (2001); truy cập 2006-12-05.</ref> Dịch vụ khẩn cấp [[9-1-1]] của thành phố được trang bị để đáp ứng trên 150 ngôn ngữ.<ref name="911service">{{chú thích web|title =City of Toronto: Emergency Services– 9–1–1 = EMERGENCY in any language|publisher=City of Toronto|url=http://www.toronto.ca/emerg/911.htm|accessdate =January 5, 2007}}</ref>