Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thừa Thiên Huế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cikki (thảo luận | đóng góp)
Cikki (thảo luận | đóng góp)
Dòng 129:
 
== Lịch sử ==
[[Hình:Hueciteimperiale.png|nhỏ|phải|180px150px|Bản đồ Kinh thành Huế và một số di tích.]]
Thừa Thiên Huế, [[Thuận Hóa]] - [[Cố đô Huế|Phú Xuân]] - [[Huế]] là vùng đất có lịch sử lâu đời. Những phát hiện khảo cổ học gần đây cho thấy rõ dấu vết của người xưa trên mảnh đất này. Những di vật như [[rìu đá]], [[đồ gốm]] được tìm thấy ở Phụ Ổ, Bàu Ðưng (Hương Chữ, [[Hương Trà]]) cho phép khẳng định đây là các di tích có niên đại cách đây trên dưới 4.000 năm. Những chiếc rìu đá được phát hiện trên nhiều địa bàn khác nhau, đặc biệt tại các xã Hồng Bắc, Hồng Vân, Hồng Hạ, Hồng Thủy, Bắc Sơn ([[A Lưới]]); Phong Thu ([[Phong Ðiền]]) đã chứng minh sự có mặt của con người ở vùng đất này trên dưới 5.000 năm. Di tích khảo cổ quan trọng gắn liền với nền văn hóa Sa Huỳnh được tìm thấy lần đầu tiên tại Thừa Thiên Huế năm 1987 là di tích Cồn Ràng (La Chữ, Hương Chữ, [[Hương Trà]]) nói lên rằng chủ nhân của nền văn hóa này đã đạt đến trình độ cao trong đời sống vật chất lẫn tinh thần cách đây trên dưới 2.500 năm. Dấu ấn này còn được tìm thấy ở Cửa Thiềng năm 1988 (Phú Ốc, Tứ Hạ, Hương Trà). Cùng với văn hóa Sa Huỳnh, tại Thừa Thiên Huế còn có sự hiện diện của [[văn hóa Đông Sơn|văn hóa Ðông Sơn]]. Năm 1994, [[trống đồng]] loại một đã được phát hiện ở Phong Mỹ, Phong Ðiền. Ðây là một trong những di vật độc đáo của nền [[văn hóa Việt cổ]].
[[Hình:Flag of Nguyen dynasty's administrative unit - Thua Thien.svg|nhỏ|phải|100px150px|[[Hiệu kỳ]] [[phủ Thừa Thiên]], 1868 - 1885.]]
Các cứ liệu xưa cho biết, từ xa xưa Thừa Thiên Huế từng là địa bàn giao tiếp của những cộng đồng cư dân mang nhiều sắc thái văn hóa khác nhau, cùng cư trú và cùng phát triển... Trong thời kỳ phát triển của [[Văn Lang]] - [[Âu Lạc]], tương truyền Thừa Thiên Huế vốn là một vùng đất của bộ Việt Thường. Trong thời kỳ nước [[Nam Việt]] lại thuộc về Tượng Quận. Năm 116 trước Công nguyên, quận Nhật Nam ra đời thay thế cho Tượng Quận. Thời kỳ Bắc thuộc, trong suốt thời gian dài gần 12 thế kỷ, vùng đất này là địa đầu phía Bắc của Vương quốc Chămpa độc lập. Sau chiến thắng Bạch Ðằng lịch sử của Ngô Quyền (năm 938), Ðại Việt trở thành quốc gia độc lập và qua nhiều thế kỷ phát triển, biên giới Ðại Việt đã mở rộng dần về phía Nam. Năm 1306, công chúa Huyền Trân em gái vua Trần Anh Tông, "nước non ngàn dặm ra đi" làm dâu vương quốc Chămpa, vua Chế Mân dâng hai châu Ô, Rí (Lý) để làm sính lễ. Năm sau, vua Trần đổi hai châu này thành châu Thuận, châu Hóa và đặt chức quan cai trị. Thừa Thiên Huế trở thành địa bàn giao thoa giữa hai nền văn hóa lớn của phương Ðông với nền văn hóa của các cư dân bản địa.
[[Hình:Southvietmap.jpg|nhỏ|180px150px|Bản đồ hành chính [[Việt Nam Cộng hòa]] cho thấy địa giới [[tỉnh Thừa Thiên]] năm 1967.]]
Từ khi trở về với [[Đại Việt]], Châu Hóa và vùng đất [[Thuận Hóa]] đã từng là nơi ghi dấu những công cuộc khai phá mở làng, lập ấp, nơi [[Đặng Tất]] xây dựng đồn lũy chống quân [[nhà Minh|Minh]], nơi cung cấp "kho tinh binh" cho [[Lê Thái Tổ]] bình định giang sơn. Với lời sấm truyền "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một dải Hoành sơn, có thể yên thân muôn đời); năm 1558, [[Nguyễn Hoàng]] xin vào trấn giữ xứ [[Thuận Hóa|Thuận Hoá]] mở đầu cho cơ nghiệp của các [[chúa Nguyễn]]. Sự nghiệp mở mang của 9 đời [[chúa Nguyễn]] ở [[Miền Nam (Việt Nam)|Ðàng Trong]] đã gắn liền với quá trình phát triển của vùng đất [[Thuận Hóa]] - [[Cố đô Huế|Phú Xuân]]. Hơn ba thế kỷ từ khi trở về với [[Đại Việt|Ðại Việt]], Thuận Hóa là vùng đất của trận mạc, ít có thời gian hòa bình nên chưa có điều kiện hình thành được những trung tâm sinh hoạt sầm uất theo kiểu đô thị. Sự ra đời của thành [[Châu Lý|Hóa Châu]] (khoảng cuối TK XV, đầu TK XVI) có lẽ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn với tư cách là một tòa thành phòng thủ chứ chưa phải là nơi sinh hoạt đô thị của xứ Thuận Hóa thời ấy. Mãi cho đến năm 1636 chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long là bước khởi đầu cho quá trình đô thị hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của Thành phố [[Huế]] sau này. Hơn nửa thế kỷ sau, năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Thái lại dời phủ chính đến làng Thụy Lôi, đổi là Phú Xuân, ở vị trí Tây Nam trong kinh thành Huế hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát triển Phú Xuân thành một trung tâm đô thị phát đạt của xứ Ðàng Trong. Chỉ trừ một thời gian ngắn (1712 - 1738) phủ chúa dời ra Bác Vọng, song khi Võ Vương lên ngôi lại cho dời phủ chính vào Phú Xuân nhưng dựng ở "bên tả phủ cũ", tức góc Ðông Nam Kinh thành Huế hiện nay. Sự nguy nga bề thế của Ðô thành Phú Xuân dưới thời Nguyễn Phúc Khoát đã được Lê Quý Ðôn mô tả trong "Phủ Biên Tạp Lục" năm 1776 và trong [[Ðại Nam nhất thống chí]], với tư cách là một đô thị phát triển thịnh vượng trải dài hai bờ châu thổ Sông Hương, từ [[Kim Long]] - [[Dương Xuân]] đến [[Bao Vinh]] - [[Thanh Hà]]. Phú Xuân là thủ phủ của xứ Ðàng Trong (1687-1774); rồi trở thành Kinh đô của nước Ðại Việt thống nhất dưới triều đại Quang Trung (1788 - 1801) và cuối cùng là Kinh đô của nước Việt Nam gần 1,5 thế kỷ dưới triều đại nhà Nguyễn (1802 - 1945). Phú Xuân-Huế, Thừa Thiên Huế đã trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa nghệ thuật quan trọng của đất nước từ những thời kỳ lịch sử ấy.
[[Hình:Airfield, Hue Citadel July, 1967.jpg|nhỏ|phải|180px150px|Huế năm 1967 - một năm trước khi bị [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam|Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam]] pháo kích gây tổn hại nặng.]]
Năm 1858, liên quân [[Pháp]]-[[Tây Ban Nha]] nổ súng tấn công [[Ðà Nẵng]]. Năm 1916, [[Việt Nam Quang phục Hội]] tổ chức khởi nghĩa trên quy mô nhiều tỉnh, vua [[Duy Tân]] cũng hưởng ứng.