Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kim Ai Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 71:
Lúc này Hạ chủ phụ [[Lý Tuân Húc]] đã tồ, Nam Bình vương [[Lý Hiện]] làm hoàng đế nước Hạ, triều Kim cử sứ sang dự tang. Trong lúc này Kim đình bàn việc nghị hòa với Tống cho yên mặt nam, nhưng lại gặp các tướng Tống là [[Vương Nghĩa Thâm]], [[Hạ Toàn]], [[Trương Huệ]], [[Phạm Thành Tiến]] ở Sở châu dâng thành đầu hàng, Kim chủ phong luôn bốn người làm quận vương, cải Sở châu thành Bình Hoài phủ, từ đó Kim - Tống lại xảy ra xung đột. Trong khi đó Mông chủ [[Thiết Mộc Chân]] đã bắt đầu đem quân tấn công [[Tây Hạ]], các tướng [[Hoàn Nhan Ngoa Khả]], [[Ngột Thạch Liệt Nha Ngô Tháp]] được triệu về Biện Kinh bàn việc xuất binh cứu Hạ, nhưng lúc này triều Kim đến bản thân cũng khó bảo toàn thì cũng chẳng thể giúp được ai. Chiến sự ở Lưỡng Hà vẫn thất lợi, từng vùng đất của Kim rơi vào tay người Mông. Kim chủ bắt đầu bàn tới việc nghị hòa với Mông Cổ, nhưng có Đồng phán phủ Mục Thân Tản Cáp phản đối, những đại thần khác tán thành. Tháng 6 ÂL năm [[1227]], Kim chủ quyết định cử [[Hoàn Nhan Hợp Chu]] làm Nghị hòa sứ sang Mông<ref name="TTTTG164">''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s::續資治通鑑/卷164|quyển 164]].</ref>.
 
Lúc đó quân Mông Cổ đã tiến rất gần kinh đô nước Hạ. Hạ chủ thế cùng lực kiệt phải dâng đất xin hàng. Triều Hạ từ Cảnh Tông [[Lý Nguyên Hạo]] đến Hậu chủ [[Lý Hiện]] là hơn 200 năm, cùng với Tống - Kim (trước đó là Liêu) ba nước hình thành thế chân vạc, kềm kẹp lẫn nhau, đến đó thì bị diệt vong. Quân Mông Cổ bắt vô số thiếu nữ và vàng bạc châu báu đem về nước. Nhưng không may Mông chủ [[Thiết Mộc Chân]] vốn đã mang bệnh, đến tháng 8 năm này thì bệnh tình trở nặng rồi qua đời ở Lục Bàn Sơn, thọ 66 tuổi, truy miếu hiệu là Thái Tổ. Trước lúc lâm chung MôngThái chủTổ nói với tả, hữu
:''Tinh binh của Kim ở Đồng Quan, phía nam hùng cứ Liên Sơn, phía bắc nắm giữ Đại Hà, thế rất khó phá. Nhưng có thể mượn đường nước Tống; Tống với Kim vốn là thù địch lâu năm, tất sẽ bằng lòng. Lúc đó đem binh đến Đường Đặng thẳng tiến vào Đại Lương thì Kim nguy cấp. Khi đó Kim tất trưng binh ở Đồng Quan, dù có hơn vạn người nhưng bốn nẻo đã bị ta chiếm mà lòng quân của chúng dao động, không chiến cũng đánh bại được. Lúc đó thì không còn lo nước Kim không mất''.<ref name="TTTTG164" />
 
[[Thiết Mộc Chân]] chết đi, con trai thứ tư là [[Đà Lôi]] làm giám quốc, quân Mông lại theo hướng Phượng Tường tiến vào Kinh Triệu, cả Quan Trung trở nên chấn động. Triều Kim cho đốc thúc dân chúng Thiểm Tây chuẩn bị chống giặc, đốc thúc tiền thuế và quân lương, nhưng lại có đình nghị rằng quân Mông chưa tới nơi nên sự việc không được tiến hành khẩn trương.
 
Tháng 4 ÂL năm [[1228]], Hữu thừa Sư An Thạch dâng sớ xin giết ba kẻ gian nịnh bên cạnh Kim chủ khiến Kim chủ tức giận, bỏ lên triều bốn ngày và còn trách cứ An Thạch. An Thạch âu sầu sinh bệnh mà chết, Kim chủ tỏ ra hối hận và thương tiếc. Vào mùa hạ năm [[1231]], thái hậu Ôn Đôn thị qua đời, thụy là Minh Huệ hoàng hậu.
 
Năm [[1229]], người Mông tôn con thứ ba của Thái Tổ [[Thiết Mộc Chân]] là [[Oa Khoát Đài]] lên làm Đại Hãn<ref name="TTTTG164" />. Cuối năm này Kim chủ sai sứ sang Mông nghị hòa. Mông chủ [[Oa Khoát Đài]] không cho và còn quyết định đem quân phạt Kim. Tháng 10 ÂL năm này, quân Mông tấn công Khánh Dương của Kim. Kim sai người đến dâng lễ vật xin bãi binh nghị hòa, Mông chủ không cho; Kim chủ phải cử Y Lạt Bố Cáp cầm quân giải vây Khánh Dương nhưng thua trận, các thành lũy ở phía nam Hoàng Hà của Kim như Kinh Triệu, Vệ châu bị mất. Năm [[1230]], [[Oa Khoát Đài]] cùng em là [[Đà Lôi]] đích thân đưa quân nam hạ, cả Quan Trung chấn động. Quân Mông tiến tới Thiểm Tây, đóng hơn 60 trại dưới chân núi, uy hiếp đến Phượng Tường, Thiểm Tây bị uy hiếp nặng nề. Nhưng ở mặt trận Đồng Quan, Lam Quan thì quân Mông lại gặp thất lợi, nên sai sứ đến Tống bàn việc hợp binh đánh Kim, nhưng do triều Tống ban đầu cự tuyệt nên Mông - Tống xảy ra xung đột ít lâu, quân Mông tiến vào đất Tống. Nhưng không được bao lâu thì Mông Chủ triệu [[Đà Lôi]] về đánh Nhiêu Phong quan. Cuối năm [[1231]], quân Mông Cổ tấn công Hà Trung, đến tháng 8 ÂL thì thành bị phá. Mông chủ đánh Nhiêu Phong quan tiến thẳng Biện Kinh<ref name="TTTTG165">''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s::續資治通鑑/卷165|quyển 165]].</ref>. Kim chủ thất kinh, triệu chư tướng vào triều bàn việc phòng thủ, rồi chia quân đóng đồn ở Tương, Đặng: [[Hoàn Nhan Hợp Đạt]] và [[Y Lý Bố Cáp]] đóng ở Đặng châu, [[Hoàn Nhan Di]], [[Dương Ốc Diễn]], [[Trần Hòa Thượng]] dẫn quân hội hợp ở Thuận Dương. Quân Mông Cổ nhanh chóng vượt Hán Giang, quân của [[Hoàn Nhan Hợp Đạt]] bị thua trận, nhưng may thay có bộ tướng [[Bồ Sát Đình Trụ]] liều chết chống địch nên quân Mông phải rút lui<ref name="TTTTG165" />. Nhưng Hợp Đạt sau đó lại dẫn quân lui về Đặng châu, quân Mông đuổi theo, Hợp Đạt và Bố Cáp bị quân Mông đánh bại nhưng giấu việc này đi nói bại thành thắng. Quần thần nước Kim trở nên phấn chấn, mở tiệc tượu chúc mừng.
 
== Vứt bỏ Biện Kinh ==