Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lagash”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{Infobox ancient site |name = <!-- required --> |native_name = |alternate_name = |image = Relief Ur-Nanshe Louvre AO2344.jpg |imagealttext = |capt…”
 
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 48:
[[File:Gudea of Lagash Girsu.jpg|thumb|[[Gudea]] của Lagash, tượng bằng diorit được tìm thấy tại [[Girsu]] ([[Louvre]])]]
 
'''Lagash'''{{#tag:ref|[[Tiếng Sumer|Sumer]]: ''Lagaš<sup>ki</sup>''; cuneiformchữ hình nêm [[logogramtốc ký]]: {{cuneiform|&#x12262;&#x12053;&#x121B7;&#x121A0;}}, [NU<sub>11</sub>.BUR].LA<sup>KI</sup><ref>[http://etcsl.orinst.ox.ac.uk/cgi-bin/etcsl.cgi?searchword=l=lagac%20t=SN&charenc=gcirc The Electronic Text Corpus of Sumerian Literature]</ref> orhoặc [ŠIR.BUR].LA<sup>KI</sup>, "storehouse;"<ref>''The Pennsylvania Sumerian Dictionary.'' "[http://psd.museum.upenn.edu/epsd/epsd/e3246.html Lagash]." Accessed 19 Dec 2010.</ref> [[Tiếng Akkad|Akkad]]: ''Nakamtu'';<ref>[http://psd.museum.upenn.edu/epsd/epsd/e3246.html Electronic Pennsylvania Sumerian Dictionary (EPSD)]</ref> modern '''Tell al-Hiba''', [[Dhi Qar Governorate]], [[Iraq]]|group=}}{{IPAc-en|ˈ|l|eɪ|ɡ|æ|ʃ}} là một thành phố cổ nằm phía tây bắc ngã ba của sông [[Euphrates]] và [[Tigris]] và phía đông [[Uruk]], khoảng 22 km (14 dặm) về phía đông của thành phố ngày nay là [[Ash Shatrah]], [[Iraq]]. Lagash là một trong những thành phố lâu đời nhất ở vùng [[Cận Đông cổ đại]]. Vị trí cổ đại của Surghul/Nina là khoảng 6 dặm (9,7 km). [[Girsu]] gần đó, khoảng 25 km (16 dặm) về phía tây bắc của Al-Hiba, là trung tâm tôn giáo của thị quốc Lagash. Đền thờ của Lagash là E-Ninnu, dành riêng cho thần [[Ningirsu]].
 
==Lịch sử==
Dòng 58:
 
===Xung đột với Umma===
Vào khoảng năm 2450 TCN, Lagash và thành phố láng giềng [[Umma]] có đánh lẫn nhau sau một cuộc tranh chấp biên giới. Theo như mô tả trong [[Tấm bia Kền kền]] thì vị vua hiện tại của Lagash là [[Eannatum]], lấy cảm hứng từ thần bảo trợ của thành phố [[Ningirsu]], bắt đầu mang quân đánh bại thành phố gần đó. Những chi tiết ban đầu của cuộc chiến vẫn chưa rõ ràng, nhưng tấm bia có thể miêu tả một vài chi tiết mơ hồ về sự kiện này. Theo những hình khắc của tấm bia thì khi hai bên gặp nhau trên chiến trường, Eannatum đã bước xuống cỗ chiến xa của mình và dẫn đầu hàng quân tiến lên. Sau khi hạ thấp những ngọn giáo, quân Lagash liền xông vào hàng ngũ quân Umma theo [[Đội hình phalanx|đội hình Phalanx]] dày đặc. Sau một cuộc đụng độ ngắn ngủi, Eannatum và quân của ông đã giành được chiến thắng trước đội quân của Umma. Dù bị tên bắn trúng mắt, vua của Lagash vẫn còn sống để tận hưởng chiến thắng của quân mình. Cuộc chiến này là một trong những trận đánh có tổ chức sớm nhất được biết đến với giới học giả và sử gia.<ref name=Battle>{{cite book|last=Grant|first=R.G.|title=Battle|year=2005|publisher=Dorling Kindersley Limited|location=Great Britain|isbn=978-1-74033-593-5}}</ref>
 
===TriềuCác triều đại của Lagash===
Những triều đại này không được tìm thấy trên bảng [[danh sách vua Sumer]] dù một mảnh vỡ bổ sung rất rời rạc đã được tìm thấy tại Sumer, gọi là ''những người cai trị Lagash''.<ref>[http://etcsl.orinst.ox.ac.uk/cgi-bin/etcsl.cgi?text=t.2.1.2# English translation]</ref> Nó còn nhớ như in sau trận lụt nhân loại đã gặp khó khăn trong việc trồng thực phẩm, bị lệ thuộc hoàn toàn vào nước mưa; ngoài ra còn có liên quan đến kỹ thuật thủy lợi và canh tác lúa mạch được truyền đạt bởi các vị thần. Vào cuối bảng danh sách là tuyên bố "viết trong trường học", cho thấy đây là một loại trường đào tạo người sao chép bản thảo. Một vài trong số những cái tên từ các nhà lãnh đạo Lagash liệt kê dưới đây có thể được thực hiện bao gồm Ur-Nanshe, "Ane-tum", En-entar-zid, Ur-Ningirsu, Ur-Bau, và Gudea.
 
===VươngTriều triềuđại thứ nhất của Lagash===
{| class="nowraplinks" cellspacing="0" cellpadding="3" rules="all" style="background:#fbfbfb; border-style: solid; border-width: 1px; font-size:90%; empty-cells:show; border-collapse:collapse"
|- bgcolor="#F6E6AE"
Dòng 91:
|}
 
===VươngTriều triềuđại thứ hai của Lagash===
{| class="nowraplinks" cellspacing="0" cellpadding="3" rules="all" style="background:#fbfbfb; border-style: solid; border-width: 1px; font-size:90%; empty-cells:show; border-collapse:collapse"
|- bgcolor="#F6E6AE"
Dòng 125:
 
==Khảo cổ học==
Lagash là một trong những gò khảo cổ học lớn nhất trong khu vực, đo khoảng 2 1 dặm (3,2 1,6 km). Ước tính diện tích của nó nằm trong khoảng 400-600 ha (990 đến 1,480 mẫu Anh). Địa điểm này được chia bởi nền của một con kênh/sông, chạy theo đường chéo qua gò. Di chỉ này lần đầu tiên được [[Robert Koldewey]] khai quật trong sáu tuần vào năm 1887.<ref>Robert Koldewey, Die altbabylonischen Graber in Surghul und El-Hibba, Zeitschrift fur Assyriologie, vol. 2, pp. 403-430, 1887</ref> Nó còn được kiểm tra trong một đợt khảo sát khu vực của [[Thorkild Jacobsen]] và Fuad Safar vào năm 1953, việc tìm kiếm bằng chứng đầu tiên nhận dạng tên gọi của nó là Lagash. Chính thể chủ yếu trong vùng al-Hiba và Tello trước đây được xác định là ŠIR.BUR.LA ('''''Shirpurla''''').<ref>Amiaud, Arthur. "[http://www.sacred-texts.com/ane/rp/rp201/rp20112.htm The Inscriptions of Telloh]." ''Records of the Past,'' 2nd Ed. Vol. I. Ed. by A. H. Sayce, 1888. Accessed 19 Dec 2010. M. Amiaud notes that a Mr. Pinches (in his ''Guide to the Kouyunjik Gallery'') contended ŠIR.BUR.LA<sup>ki</sup> could be a logographic representation of "Lagash," but inconclusively.</ref> Al-Hiba lại được khám phá một lần nữa trong năm mùa khai quật từ năm 1968 đến năm 1976 bởi một nhóm từ [[Metropolitan Museum of Art|Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan]] và [[Institute of Fine Arts|Viện Mỹ thuật]] của [[Đại học New York]]. Nhóm nghiên cứu dưới sự dẫn đầu của Vaughn E. Crawford và bao gồm cả Donald P. Hansen và Robert D. Biggs. Mục tiêu chính là khai quật ngôi đền Ibgal của [[Inanna]] và đền thờ Bagara của Ningirsu, cũng như một khu vực hành chính có liên quan.<ref>Donald P. Hansen, Al-Hiba, 1968–1969: A Preliminary Report, Artibus Asiae, vol 32, no. 4, pp. 243-258, 1970</ref><ref>Donald P. Hansen, Al-Hiba, 1970–1971: A Preliminary Report, Artibus Asiae, vol. 35 no. 1-2, pp. 62-70, 1973</ref><ref>Donald P. Hansen, Al-Hiba: A summary of four seasons of excavation: 1968–1976, Sumer, vol. 34, pp. 72-85, 1978</ref><ref>Vaughn E. Crawford, Inscriptions from Lagash, Season Four, 1975-76, Journal of Cuneiform Studies, vol. 29, no. 4, pp. 189-222, 1977</ref>
 
Nhóm nghiên cứu quay trở lại 12 năm sau đó vào năm 1990 cho một mùa khai quật cuối cùng do DP Hansen tiến hành. Công việc chủ yếu liên quan đến khu vực liền kề với một ngôi đền vẫn chưa được khai quật. Kết quả của hoạt động khai quật năm nay dường như chưa được công bố.<ref>Excavations in Iraq 1989–1990, Iraq, vol 53, pp. 169-182, 1991</ref>