Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Girsu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{coord|31|33|43.3|N|46|10|39.3|E|display=title}} '''Girsu''' (chữ hình nêm:?; Sumer:Ĝirsu; Akkad:''?'') ngày nay là ''…”
 
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 3:
 
==Lịch sử==
[[File:Issue of barley rations.JPG|thumb|right|Một bản kê về việc phân chia [[lúa mạch]] được cấp hàng tháng cho những người trưởng thành và trẻ em được viết bằng [[chữ hình nêm]] trên phiến đất sét, viết vào năm thứ 4 thời vua [[Urukagina]] (khoảng 2350 TCN). Từ Girsu, Iraq. [[Bảo tàng Anh]], London.]]
Girsu có thể đã có cư dân sinh sống trong [[thời kỳ Ubaid]] (5300-4800 TCN), nhưng mức độ quan trọng của hoạt động bắt đầu vào thời [[Tiền Triều đại]] (2900-2335 TCN). Vào thời của [[Gudea]] trong suốt [[Lagash|Triều đại thứ hai của Lagash]], Girsu trở thành thủ đô của vương quốc Lagash và tiếp tục là trung tâm tôn giáo của nó sau khi quyền lực chính trị đã chuyển sang thành phố Lagash.<ref>Dietz Otto Edzard, Gudea and His Dynasty. University of Toronto Press, 1997, ISBN 0-8020-4187-6</ref> Trong suốt thời kỳ [[Triều đại thứ ba của Ur|Ur III]], Girsu là một trung tâm hành chính chính quan trọng cho đế quốc. Sau sự sụp đổ của [[Ur]], Girsu giảm dần tầm quan trọng, nhưng vẫn còn cư dân sinh sống cho tới khoảng năm 200 TCN.
 
==Khảo cổ học==
[[File:Issue of barley rations.JPG|thumb|right|Một bản kê về việc phân chia [[lúa mạch]] được cấp hàng tháng cho những người trưởng thành và trẻ em được viết bằng [[chữ hình nêm]] trên phiến đất sét, viết vào năm thứ 4 thời vua [[Urukagina]] (khoảng 2350 TCN). Từ Girsu, Iraq. [[Bảo tàng Anh]], London.]]
Telloh là di chỉ Sumer đầu tiên được khai quật rộng rãi, lần đầu dưới thời Pháp thuộc phó lãnh sự tại [[Basra]] là [[Ernest de Sarzec]] từ năm 1877–1900, tiếp theo là người kế nhiệm ông [[Gaston Cros]] từ năm 1903–1909.<ref>Découvertes en Chaldée, E. de Sarzec, Paris, Leroux, 1884–1893</ref><ref>[http://www.archive.org/download/nouvellesfouille00crosuoft/nouvellesfouille00crosuoft.pdf Nouvelles fouilles de Tello, Gaston Cros, Paris, 1910]</ref> Các cuộc khai quật tiếp tục dưới thời Abbé Henri de Genouillac vào năm 1929–1931 và thời André Parrot vào năm 1931–1933.<ref>Fouilles de Telloh I: Epoques presargoniques, Abbé Henri de Genouillac, Paris, 1934</ref><ref>Fouilles de Telloh II: Epoques d'Ur III Dynastie et de Larsa, Abbé Henri de Genouillac, Paris, 1936</ref><ref>A. Parrot, ''Tello: vingt campagnes de fouilles 1877–1933'', Paris, A. Michel ,1948</ref> Đó là tại vì ở Girsu mà người ta đã tìm thấy các mảnh vỡ của [[Bia Kền kền]]. Khu di chỉ này đã phải chịu đựng những cuộc khai quật theo tiêu chuẩn nghèo nàn và cũng từ những đợt khai quật bất hợp pháp. Khoảng 50.000 bảng chữ hình nêm đã được lấy lại từ khu di chỉ này.<ref>[http://www.etana.org/coretexts/20020.pdf Telloh Tablets at Haverford Library]</ref>