Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hải quân Hoa Kỳ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 103:
Tổng tư lệnh [[George Washington]] ra lệnh sử dụng 7 tuần dương hạm để chặn bắt các tàu tiếp tế của Anh và báo cáo sự việc cho quốc hội. Việc này làm kết thúc vụ tranh cãi tại Quốc hội là có nên hay không nên "khiêu khích" người Anh bằng cánh thiết lập một lực lượng hải quân vì việc các tàu của Washington đã bắt được các tàu của Anh, đấy cũng là một hành động khiêu khích.
 
Trong lúc quốc hội đang cân nhắc thì nhận được tin có hai tàu tiếp tế không vũ trang và không có tàu hộ tống từ Anh đang hướng về [[Québec|Quebec]]. Một kế hoạch đã được phát thảo để đón chặn các tàu này. Tuy nhiên, các tàu vũ trang được sử dụng để đón chặn lại không phải là tàu vũ trang của quốc hội mà của riêng các thuộc địa. Lúc đó việc mang ý nghĩa trọng đại hơn là việc thảo thêm một kế hoạch trang bị hai tàu hoạt động dưới quyền chỉ huy trực tiếp từ quốc hội để đón bắt các tàu tiếp tế của Anh. Việc này không được thực hiện cho đến ngày 14 tháng 10 1775 khi [[George Washington]] thông báo rằng ông đã tiếp nhận quyền chỉ huy ba tàu buồm vũ trang dưới quyền của Quốc hội Lục địa để đón chặn bất cứ tàu tiếp tế nào của Anh gần [[Massachusetts]]. Với việc tiết lộ rằng các tàu này đã ra khơi dưới quyền của Quốc hội Lục địa nên quyết định thêm vào hai chiếc nữa được dễ dàng hơn;<ref>[http://www.history.navy.mil/faqs/faq31-1.htm "Birth of the U.S. Navy"]. Department of the Navy&nbsp; – Naval Historical Center Official Website. Truy cập 2 tháng 8 năm 2006.</ref> giải pháp được thông qua và từ đó ngày 13 tháng 10 đã trở thành ngày sinh nhật chính thức của Hải quân Hoa Kỳ.<ref>[http://www.history.navy.mil/faqs/faq112-1.htm "Birthplace of the Navy"]. Department of the Navy&nbsp; — Naval Historical Center Official Website. Truy cập 8 tháng 4 năm 2006.</ref>
 
[[Hải quân Lục địa]] đạt được những kết quả khác nhau; nó thành công trong một số cuộc đụng độ hải quân và tấn công các tàu buôn của Anh nhưng lại bị thiệt hại 24 chiếc tàu<ref name="love">Love, Robert W. Jr. History of the US Navy Volume One: 1775-1941. Harrisburg: Stackpole Books, 1992.</ref> và có lúc chỉ còn lại 2 chiếc sử dụng được.<ref name="howarth">Howarth, Steven. To Shining Sea: A history of the United States Navy 1776-1991. New York: Random House, 1991.</ref> Sau chiến tranh với Anh, quốc hội không còn chú ý đến lực lượng hải quân nữa mà chỉ tập trung thu phục biên cương mới phía tây của Hoa Kỳ. Một lực lượng hải quân hiện dịch được xem là không cần thiết vì tổn phí cao để duy trì và vai trò chiến đấu vào lúc đó của nó cũng bị hạn chế.<ref name="multiple1"/>
Dòng 112:
Hoa Kỳ không có một lực lượng hải quân trong khoảng thời gian gần 1 thập niên—đây là lý do khiến cho đội thương thuyền của Hoa Kỳ dễ làm mục tiêu của một loạt các vụ tấn công của hải tặc người Berber. Sự hiện diện vũ trang trên biển từ giữa năm 1790 và lúc triển khai các tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1797 là do Cục Hải quan Biển Hoa Kỳ (''U.S. Revenue Cutter Service'') bảo trách. Đây là lực lượng tiền thân của [[Tuần duyên Hoa Kỳ]]. Mặc dù Cục Hải quan Biển Hoa Kỳ tiến hành nhiều hoạt động chống bọn hải tặc này nhưng cục không có khả năng ngăn chặn những cuộc quấy phá của bọn hải tặc ngoài khơi xa. Vì thế Quốc hội đã ra lệnh đóng mới và triển khai sáu [[tàu khu trục|khu trục hạm]] nhỏ vào ngày 27 tháng 3 năm 1794;<ref name="love"/> sau ba năm, ba chiếc được đưa ra sử dụng: đó là [[USS United States (1797)|USS ''United States'']], [[USS Constellation (1797)|USS ''Constellation'']] và [[USS Constitution|USS ''Constitution'']].
 
[[Tập tin:USS Constitution vs Guerriere.jpg|phải|nhỏ|[[USS Constitution|USS ''Constitution'']] đụng độ với [[HMS Guerriere (1806)|HMS&nbsp; ''Guerriere'']] trong [[Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc (1812)|Chiến tranh 1812]].]]
 
Theo sau cuộc chiến nữa mùa, không tuyên chiến với [[Pháp]], Hải quân Hoa Kỳ đã đảm trách nhiều hành động quân sự trong [[Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc (1812)|Chiến tranh 1812]] khi chiến thắng vô số các trận đối đầu một đối một với [[Hải quân Hoàng gia Anh]]. Hải quân Hoa Kỳ đã rượt đuổi tất cả các lực lượng lớn của Anh ra khỏi [[Ngũ Đại Hồ]] và [[hồ Champlain]], ngăn không cho những vùng này trở thành những vùng xung đột do Anh kiểm soát. Dù vậy, Hải quân Hoa Kỳ không thể nào ngăn chặn người Anh phong tỏa các hải cảng và lực lượng đổ bộ trên phần đất Mỹ.<ref name="multiple1"/> Sau chiến tranh, Hải quân Hoa Kỳ lại tập trung vào việc bảo vệ các cơ sở hàng hải Mỹ, gởi các [[hải đoàn]] đến vùng [[biển Caribe|biển Caribbe]], Địa Trung Hải, [[Nam Mỹ]], [[châu Phi]], và [[Thái Bình Dương]].<ref name="love"/>
Dòng 131:
Society for Military History Stable at [http://www.jstor.org/stable/1982840 Jstor.org]</ref>
 
Khả năng xảy ra xung đột với [[Liên Xô]] trong thời [[Chiến tranh Lạnh|Chiến tranh lạnh]] đã đẩy Hải quân Hoa Kỳ tiếp tục chạy đua về kỹ thuật bằng việc phát triển các hệ thống vũ khí, chiến hạm, và phi cơ mới. Chiến lược của Hải quân Hoa Kỳ đã chuyển đổi sang chiến lược triển khai tiền phương để hỗ trợ các đồng minh của Hoa Kỳ qua việc đặt nặng trách nhiệm vào các liên đoàn tác chiến hàng không mẫu hạm.<ref>Palmer, Michael A. [http://www.history.navy.mil/history/history4.htm "The Navy: The Transoceanic Period, 1945-1992"]. Department of the Navy&nbsp; — Naval Historical Center Official Website. Truy cập 8 tháng 4 năm 2006.</ref>
 
Hải quân Hoa Kỳ là một trong các lực lượng chính trong [[Chiến tranh Việt Nam]], phong tỏa [[Cuba]] trong vụ [[khủng hoảng tên lửa Cuba]]. Với việc sử dụng các tàu ngầm có trang bị tên lửa đạn đạo, Hải quân Hoa Kỳ đã trở thành một yếu tố quan trọng trong chính sách răng đe hạt nhân chiến lược của Hoa Kỳ. Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành nhiều chiến dịch trong [[vịnh Ba Tư]] chống lại [[Iran]] trong năm 1987 và 1988, nổi bật nhất là [[Chiến dịch Praying Mantis]]. Hải quân tham dự lớn trong [[Chiến dịch Urgent Fury]], [[Chiến tranh vùng Vịnh|Chiến tranh vùng vịnh]], [[Chiến tranh vùng Vịnh|Chiến dịch Bão Sa mạc]], [[Chiến dịch Deliberate Force]], [[Chiến dịch Allied Force]], [[Chiến dịch Desert Fox]] và [[Chiến dịch Southern Watch]].
Dòng 967:
|publisher=NavSource}}
*{{chú thích web|url=http://www.hazegray.org/
|title=Haze Gray & Underway&nbsp; — Naval History and Photography
|publisher=HazeGray.org}}
*[http://www.rescue007.org/photo_essay.htm Unclassified Naval photos of Task Force 71/Soviet confrontation in search of downed [[KAL 007]]]
Dòng 988:
*{{chú thích web|url=http://www.naval-history.net/WW2USN193909.htm
|accessdate=3 tháng 2 năm 2007
|title=Strict Neutrality&nbsp; — Britain & France at War with Germany, tháng 9 năm 1939 - tháng 5 năm 1940
|work=United States Navy and World War II
|publisher=Naval-History.net}}{{dead link|date=tháng 2 năm 2010}} (Chronology of the lead up of U.S. entry into World War II.)