Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Văn minh Lưỡng Hà”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: ( → ( using AWB
thêm nội dung Văn minh Lưỡng Hà
Dòng 1:
{{trang định hướng}}
'''Văn minh Lưỡng Hà''' gồm các nhóm văn minh sau:
 
== '''Văn minh Lưỡng Hà''' gồm các nhóm văn minh sau: ==
*Văn minh [[Người Sumer và Akkad]] (TNK IV TCN đến – 2024)
*[[Văn minh cổ Babylon|Văn minh Cổ Babylon]] (– 2024 đến – 1595)
Dòng 7:
*[[Văn minh Phoenicia và Palestine]] (từ TNK III TCN)
*[[Israel và Judah cổ xưa]]
 
== '''Văn minh''' '''Lưỡng Hà: (Tập 3 Bộ Phim Văn Minh Phương Tây, ĐH Lós Angeles, Mỹ)''' ==
''Nơi
an tọa của vị thánh siêu quần, chủ nghĩa siêu thực linh thiêng và chủ nghĩa
thực dụng tàn nhẫn. Nơi chúng ta có thể tìm thấy cội nguồn luật pháp, buôn bán,
tiền bạc và máu đổ tràn lan. “Vùng đồng bằng Lưỡng hà” trong loạt phim Văn minh
Phương Tây. ''
* '''1.
Khu vườn Địa đàng nhiều thảm họa thiên nhiên:''' Nào thử bạn có nhận ra đoạn văn này không: ''Và Chúa đã tạo ra 1 khu vườn ở phía Đông của
, và ngài
đặt ở đó con người ngài đã tạo nên, từ đất mà Chúa đã tạo ra con người. Người
còn tạo ra các loài cây trông thì đẹp, ăn thì ngon,.. Và có 1 dòng sông chảy từ
tưới cho
khu vườn và từ đó nó chia thành 4 nhánh. Nhánh thứ nhất là Pison, nhánh thứ 2
là Gikhon, nhánh thứ 3 là Hiddeken, nhánh này chảy vòng qua Assyria, ở đó chúng
ta goi là Tigris, và nhánh thứ tư là Euphrates.'' Tất nhiên đây là 1 đoạn
trong Sáng Thế ký. Nó mô phỏng lại hình ảnh của khu vườn giữa ốc đảo của dòng
sông thứ 3 và 4 của Chúa. Khu vườn đầu tiên con người sống với các loài động
vật ở giữa thiên nhiên hào phóng, và chưa mang lại 1 rắc rối nào. Đó là 1 phần
của thiên đường. Và Vườn Địa đàng là 1 tên gọi khác của khu vườn. Và Vườn Địa
đàng này chính là đồng bằng Lương Hà cổ đại. Vùng đất giữa những con sông. Nhưng
vùng đb Lưỡng Hà và những vùng đất bao xung quanh nó, từ Biển Đen đến vịnh Ba
Tư, từ cao nguyên
đến Địa Trung Hải là 1 thiên đường bị bao trùm bởi các '''thảm họa thiên nhiên''' như khu vườn địa đàng là thiên đàng dưới bóng
đen của sự sụp đổ. Vùng đất phải chịu những cơn mưa xối xả.
 
Người Ai Cập đã nói về “dòng sông của bầu trời”. Nó có những cơn cuồng phong và những
trận bão cát khủng khiếp, những trận lũ điên cuồng như chúng ta biết về những
dòng lũ lớn mà người Do Thái lấy ra từ sử thi . Dù khi thiên nhiên không còn làm
cuộc sống khổ sở và khó lường trước nữa. Nhưng thung lũng sông không bao giờ là lối đi thuận tiện cho những kẻ xâm
lược. Một mặt hướng ra biển. Một mặt hướng ra vùng hoang vu ngổn ngang. Vì vậy
Ai Cập có thể phát triển nền văn minh của mình, mà không phải chịu cảnh chiến
tranh liên miên. Nhưng 2 con sông Tigris và
là những con đường tự nhiên tuyệt vời, không chỉ để buôn bán mà còn phục vụ cho
quân đội di chuyển và sự di cư của loài người. Vì vậy những người ở Lưỡng Hà
vừa là binh lính vừa là thương nhân. Chủ nghĩa hiện thực, sự hung ác, nhẫn tâm
của họ, một phần là do hoàn cảnh địa lý của họ. Đó cũng là 1 trong những lý do
khiến những vị thần của họ trở nên khủng khiếp, không thể dự đoán và có những
cách hiển linh rất dễ sợ.
 
'''2.
Do thiên nhiên khắc nghiệt và chiến tranh làm các phát minh vĩ đại ra đời: bánh
xe, chữ viết trừu tượng''', '''Toán học''',…: Nhiều thứ lớn lao bao quanh
chúng ta ngày nay bắt nguồn từ 1 vùng đất nhỏ, không lớn hơn Đan Mạch, nằm trên
châu thổ sông Tigris – Euphrates mà chúng ta biết với cái tên Sumer. Sự khắc
nghiệt của thiên nhiên, cộng với những cuộc chiến tranh triền miên của họ - đặc
biệt là những cuộc chiến tranh do chính họ châm ngòi, đã mở đầu 1 loạt đột phá
công nghệ và thúc đẩy chuyển biến về văn hóa, xã hội, kinh tế. Chính tại ,
qua hệ thống tưới tiêu và thoát nước, những ngôi làng đầu tiên từ lều tranh và
gạch sống đã trở thành thành phố từ thiên niên kỷ IV TCN. Những con người sáng
tạo ra nền VM Lưỡng Hà này được gọi là người Sumerian.
 
Chính ở vùng đất này, chúng ta cho rằng
bánh xe đầu tiên đã ra đời, phát triển từ bánh xe của thợ gốm, chúng đã thay
thế các chiếc xe trượt tuyết, được vận chuyển để chở những hàng hóa nặng.
Khoảng 2000 TCN, nan hoa được phát minh, làm những chiếc bánh xe nhẹ hơn nhiều.
Và sau đó trục xe được phát minh. Và vì vậy những người ở Cận Đông là những
người đầu tiên đi săn và đánh trận bằng xe ngựa. Công cụ này mang lại cho họ
lợi thế rất lớn. Cho đến khi lịch sử bắt đầu, tức là khi những văn bản (chữ
viết) đầu tiên xuất hiện, khoảng 3000 TCN, chúng ta tìm thấy ở Sumer không chỉ
những thành phố mà cả những đền thờ rộng lớn và cấu trúc xã hội phức tạp được
lãnh đạo bởi các thầy tu. Mối liên kết xã hội được tạo ra không chỉ bởi dòng
sông và nguồn nước của nó như ở Ai Cập mà còn bởi ngôi đền. Ngôi đền điều
khiển, thống trị cả cộng đồng, và các vùng quê. Và quanh nó 1 thành phố mọc
lên.
 
Việc xây dựng đền thờ là 1 nhiệm vụ tập
thể, hàng trăm nhân công tham gia, cần phải được điều phối và được chỉ đạo. Mọi
thứ phải được lên kế hoạch chính xác từ trước. Và đề cương của việc xây đền đã
được lên dây cót trước khi công việc bắt đầu. Và chúng ta có những bản xây dựng
đền ở những thành phố khác nhau được vẽ trên những phiến đất sét. Những người
Sumerian tin rằng những kế hoạch này được thiết kế bởi Chúa của họ và được
truyền lại qua những giấc mơ. Nhưng chúng ta có thể đoán được những kiến trúc
sư thật sự là những vị thầy tu. Một thứ khác chúng tôi thấy liên quan đến ngôi
đền là những phiến đất sét phủ đầy những hình vẽ phác thảo và những con số. Đây
là những văn bản được các thầy tu cất giữ. Họ là người quản lý đất đai của đền
thờ. Và người phải chịu trách nhiệm về công việc của họ trước Thánh thần – mà
thực tế là các đồng nghiệp của họ. Vì vậy họ thống nhất 1 phương pháp lưu lại
các khoản thu và chi trên những văn bản viết mà những đồng nghiệp và những
người kế nhiệm có thể hiểu. Nói cách khác họ phát minh ra chữ viết.
 
Và chữ viết khi đã được người Lưỡng Hà
phát triển, phản ảnh 1 trong những sự khác biệt chính giữa họ và người Ai Cập.
Năng lực của họ về  mức độ của sự trừu tượng hóa. Hãy nhớ rằng chữ tượng hình của người
Ai Cập là 1 hình ảnh, là 1 bức tranh. Người Ai Cập là người tư duy cụ thể, nên
kể cả khi họ đã sử dụng những ký hiệu để diễn tả 1 âm thanh hay 1 âm tiết, thì
họ luôn muốn sử dụng hình vẽ. Kể cả khi ký hiệu Alphabe cũng không chỉ đơn
thuần là những chữ cái trừu tượng, mà là những bức tranh nhỏ theo cách của
chúng. Nhưng sau đó những người kế tục Sumerian, người Semite, tiến thêm 1
bước. Những người Semite đến từ sa mạc Ả Rập, họ đến châu thổ Lưỡng Hà vào
thiên niên kỷ thứ III. Ngay sau đó họ tiếp thu được nền văn hóa Sumerian, họ đã
kết hợp các dạng chữ cái Alphabe với những đường nét hình ảnh thành 1 hệ thống
duy nhất với những ký hiệu trừu tượng thay thế những bức tranh cụ thể. Nhiều
bức tượng Sumerian có xu hướng trừu tượng hóa.
 
Người L Hà cũng rất giỏi Toán học, lĩnh
vực mà người Ai cập tỏ ra cụ thể và chặt chẽ hơn nhiều. Đây là 1 phiến đất sét
viết về 1 bài toán của những học viên L Hà.
 
'''3.
Tôn giáo siêu thực linh thiêng:''' Trong tôn giáo cũng có những điểm khác biệt. Xã hội Ai Cập 1 mực
bắt chước thần thánh. Nhưng trên thực tế, chính họ đã sáng tạo ra 1 thế giới
thần thánh, 1 bản sao của thế giới thực, nhưng rộng lớn hơn và tốt đẹp hơn
nhiều. Đây cũng là điều chúng ta tìm thấy ở Hy Lạp cổ đại. Mặt khác, người
Simites đã sáng tạo ra 1 thế giới thần thánh, nó xa lạ với chính nó và tách
biệt với tính thần thánh của nó. Họ đã cố ý sử dụng 1 dạng chủ nghĩa siêu thực
linh thiêng để thoát ly khỏi chủ nghĩa hiện thực. Nhấn mạnh vào những khía cạnh
siêu phàm của thần thánh, những đôi mắt to lớn biết thôi miên và những đặc điểm
siêu nhiên của họ. Bạn có thể nói khi mà người Ai cập bắt được sự khác nhau
giữa con người và thần thánh bằng cách mở rộng quy mô của mọi thứ, bằng cách
xây dựng những ngôi mộ, bức tượng và hình ảnh lớn hơn, ''thì người Simites lại quan tâm đến chất lượng, sự bí mật, những ảo mộng
và bản chất.'' Những ngôi đền của cư dân Lưỡng Hà và đời sống tôn giáo không
chỉ phản ánh rõ ràng khuynh hướng trừu tượng này mà còn giúp tạo nên và tổ chức
sự trừu tượng đó. Đó là do cuộc sống và xã hội người Lưỡng Hà tập trung phục vụ
những ngôi đền, thần thánh và các thầy tu, ít nhất là vào giai đoạn đầu.
 
'''4.
Hoạt động buôn bán, khuếch tán văn hóa:''' Nhưng những ngôi đền và những người phục vụ đền đài không tồn tại
trong sự biệt lập. Thứ nhất, thành phố Sumerian cần nhiều hàng hóa nhập khẩu:
gỗ, đá để xây dựng; kim loại để làm ra dụng cụ và vũ khí và sau đến là lễ vật
dâng thần linh. Những viên đá quý giá từ Afganistan và Ấn Độ. Những viên ngọc
trai từ vịnh Ba Tư. Và do đó họ buôn bán, buôn bán rộng rãi và nhộn nhịp. Một
tầng lớp thương gia hỗn tạp và độc lập dần dần hình thành. Những đoàn dân buôn
có vũ khí và các con tàu buôn thời bấy giờ là những tác nhân mạnh mẽ khuếch tán
văn hóa của họ.
 
Những thợ thủ công tự do có thể đi cùng
những đoàn buôn tìm kiếm thị trường cho sản phẩm của họ. Nô lệ cũng là 1 phần
trong hoạt động thương mại, bởi vì kẻ thù bại trận còn sống thì hữu ích hơn đã
sống. Và những nô lệ này, cùng đi với đoàn buôn trên ngựa, hoặc trên tàu, sẽ
phải được sắp xếp chổ ở khi tới các thành phố. Những người nước ngoài sẽ đòi
hỏi, được đáp ứng về nhu cầu tôn giáo, giống như ngày nay có 1 nhà thờ Mỹ ở
giữa . Như
thế những nghệ thuật và nghề thủ công đắc dụng được phát tán dễ dàng. Ví dụ cây
rìu có chuôi của người Lưỡng Hà, là 1 sự phát triển lớn lao của cây rìu cổ xưa,
được quấn quanh bởi những sợi thừng nhỏ. Những cây rìu của họ đã chu du tới
Biển Đen và thành .
Những cái bánh xe quay tít của người thợ gốm, đã làm ra những
cái lọ như thế này và được mang về phía Đông tới Ấn Độ, mang về phía Tây tới Hy
Lạp, Ai Cập.
 
Và Ai Cập đã tiếp thu những kỹ thuật làm
chai lọ của người Lưỡng Hà 1000 năm sau khi chúng được phát minh ra. Khoảng
2500 TCN, Ai Cập mới tiếp thu làm chai lọ.
 
Nhưng quan trọng nhất có lẽ là những người
thợ kim Lưỡng Hà và Anatonia (phía Bắc Lưỡng Hà) đã tìm cách sử dụng lò nung,
để nung chảy các loại quặng: đồng đỏ vào khoảng thiên niên kỷ thứ tư, đồng vào
thiên niên kỷ thứ 3 và sắt vào thiên niên kỷ thứ 2. Điều này đã làm ra các vạt
dụng mới đẹp đẽ nhưng cùng làm ra các công cụ chiến tranh, giống như chiếc mũ
sắt này. Kim loại cứng hơn tạo ra vũ khí mạnh hơn, dẫn đến áp
đảo đối phương trong chiến tranh, và cũng áp đảo trong buôn bán vì bất cứ những
gì bạn làm ra tốt hơn đối thủ của bạn, và bạn có thể bán chúng.
 
Buôn bán cũng làm cho dòng máu Sumerian
pha trộn nhiều hơn, bởi vì những nhà buôn di chuyển, những nghệ nhân thợ thủ
công di chuyển và nô lệ cũng đi từ nơi này tới nơi khác, vì vậy dòng máu nguyên
thủy, mà tất cả người Sumerian bấy giờ thừa kế, từ 1 tổ tiên chung, ngày càng bị
pha trộn mất. Kết quả là việc trông giữ ngôi đền trong
thành phố lỏng lẻo dần. Và thánh nam thánh nữ trị vì thông qua các thầy tu cao
nhất bị thay thế bằng 1 người thống trị thế tục hoặc 1 ông vua giống như thế
này.
 
'''5.
Quyền lực thế tục:''' Họ trị
vì đất nước dưới danh nghĩa thần thánh. Bạn có thể nghĩ như thế cũng chẳng khác
gì nhau, nhưng nó là bước đầu tiên tới sự quyền lực thế tục. Không thiêng
liêng, ko cúng lễ, quyền lực giờ trong tay 1 người phàm trần. Mặc dù những ông
vua thế tục này chỉ được coi như đại diện của thần thánh, được ủy thác để thực
hiện ý chí của họ. Khi họ chiến đấu có thần chỉ huy, quân đội của họ và chính
thần đánh trận chứ không phải họ. Điều đó có nghĩa là chiến thắng trong 1 trận
chiến, xác định phận sự thiêng liêng của nhà vua. Và khi họ xây dựng luật pháp,
họ chỉ đơn giản là diễn giải và áp dụng những nguyên tắc mà thần thánh đã nói
cho họ, ngài muốn con người làm theo. Trong khi đó ở Ai Cập, công lý là 1 khía
cạnh của trật tự thiêng liêng, trong đó pharaoh là 1 phần không thể tách rời. Ở
đồng bằng L Hà cũng như Israel, công lý là biểu hiện các mệnh lệnh của thần
thánh, ý chí của thần thánh, được viết ra bởi những người mà thần thánh tin
tưởng. Ví dụ như cách mà Chúa tin tưởng Moses. Và vì vậy đấng thần linh tạo ra
luật pháp, và những người truyền đạt luật pháp không còn là 1, và với sự tách
biệt này, luật pháp có cuộc sống riêng của nó. Ví dụ 1 bộ luật thành văn là 1
giao kèo giữa 2 bên. Dân chúng phải tuân lệnh nhà vua, phải tuân theo luật của
vua. Nhưng vua cũng phải tuân theo qui định dành riêng cho vua trong chính bộ
luật đó. Và như thế, không ai đứng trên luật pháp, ít nhất trên lý thuyết là
như vậy. Và mặc dù từ thời đó cho đến nay, lý thuyết thường bị phớt lờ. Đó vẫn
là nguyên tắc cơ bản, có sức mạnh lớn lao, trường tồn. Bởi vì nó được tôn trọng
thậm chí trong xung đột. Và vì vậy việc xây dựng và viết bộ luật thành văn bản
sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống và tư tưởng chính trị của cả xã hội qua các thời đại.
 
'''6.
Chiến tranh tranh giành đất đai giữa các thành phố, hình thành đế chế:''' Tuy nhiên, tại thời điểm đó, các vị vua
của cư dân L Hà, chủ yếu là người điều hành quân đội và cương vị đó, chắc hẳn
làm họ rất bận rộn. Bởi vì chiến tranh đóng 1 phần lớn trong cuộc sống của xã
cổ xưa. Mặc dù những người nông dân này sản xuất thừa thải, nhưng chủ yếu nông
sản tập trung vào tay 1 nhóm nhỏ trong xã hội. Điều này đã giới hạn khả năng mở
rộng dân số nông thôn. Vì vậy nông dân nghèo phải tìm 1 vùng đất mới để sống.
Thành phố Sumerian (chú
trọng) việc khai hoang ở vùng
sa mạc lẫn đầm lầy. Nhưng sau đó cũng như ngày nay, phần lớn những dụng cụ tiết
kiệm lao động hiệu quả nhất bị ăn cắp. Vì vậy, có những cuộc chiến không ngừng
giữa các thành phố, cố chiếm hoặc đoạt lại đất từ bên kia. Cuối cùng, chủ nghĩa
đế quốc đúng nghĩa sẽ phát triển từ những cuộc chiến tranh như thế. Một số
thành phố hoặc vùng đất sẽ mở rộng xa hơn, triệt tiêu các đối thủ xung quanh
nó, và thiết lập sự thống trị của nó và sự thống trị của thần thánh mà nó đại
diện lên những thành phố khác. Qua nhiều thế kỷ, bắt đầu khoảng 2400 TCN, có
hàng loạt các đế chế, đầu tiên là các thành phố của người
hay và các thành phố ở phía Bắc như của người 
Simite. Vị trí chính xác của vẫn
chưa được xác định. Cuối cùng là ,
thủ đô của 1 dân tộc Simites, người Amorites. là 1 thành phố thương mại lớn nhất
vùng. Có 1 lượng ngôn ngữ và phương ngữ khổng lồ được nói rất nhiều trên đường
phố và các khu chợ. Nơi đã khơi dậy, truyền cảm hứng cho huyền thoại về tháp
Baben. Mặc dù những ngôi đền bậc thang hay kim tự tháp bậc thang đầu tiên được
tạo nên bởi người Sumerian.
 
'''7.
Bộ luật đầu tiên Hammurabi:'''
 Khoảng 1800 TCN, vua Babylon Hammurabi,
đứng bên trái, đã công bố cho toàn dân 1 bộ luật viết tay, công và tư. Bộ luật
Hammurabi đã được khắc ở đây, trên 1 bia tưởng niệm, đã trở thành nền tảng của
luật thương mại quốc tế, làm xương sống cho các hợp đồng, lợi tức, các dạng thế
chấp và tất cả các loại giao dịch thương mại. Nó cũng bao gồm cả mảng hình sự
và khá nghiêm khắc trong lĩnh vực đó: “Luật thứ 8” nếu 1 người ăn trộm bò, cừu,
lừa, lợn hay lạc đà của đền thờ hay cung điện sẽ bị phạt gấp 3 lần. Nếu lấy
trộm của người bình thường, hắn sẽ bị phạt gấp 10 lần. Nếu tên trộm không thể
trả tiền, hắn sẽ bị khép tội chết. Luật thứ 110: nếu 1 nữ tu sĩ, 1 người phụng
sự cho thần thánh, mà không sống trong nhà tu kín, mở cửa 1 quán rượu hoặc đi
vào quán rượu và uống rượu sẽ bị thiêu sống. Luật 196: nếu 1 người làm 1 quý
ông mù mắt, hắn sẽ bị móc mắt. Vì vậy nền văn minh L Hà là nơi đầu tiên khai
sinh ra những thứ mà ngày nay chúng ta cho là dĩ nhiên. Bao gồm cả luật nợ máu phải trả bằng máu. Cả bộ luật và các văn tự đã được chuẩn
hóa dùng để lưu giữ bộ luật, đều đến từ hoạt động buôn bán.
 
'''8.
Cân đo đong đếm - Tiền:''' Bởi
vì họ phải viết ra những thỏa thuận, và phải làm cho những thỏa thuận này thực
sự có hiệu lực. Và cũng chính người đã phát minh ra việc cân đong đếm, rất cần
thiết cho việc buôn bán và cực kỳ hữu ích để thống kê thu chi của đền thờ,và
việc xây dựng các công trình công cộng. Và trong lúc ấy kiểu quan hệ có trật tự
của cư dân thành thị, đã đòi hỏi cách chia thời gian chính xác hơn người nông
thôn. Vì vậy người Sumerian đã chia ngày và đêm thành 2 giai đoạn 12 giờ, tức
là 24 giờ như chúng ta có ngày nay. Họ đã chế tạo ra nhiều dụng cụ để đo những
khoảng thời gian này. Họ và người
cũng chia năm ra thành tuần, mỗi tuần có 7 ngày. Ý tưởng này sau đó được người
Do Thái học tập và tiếp tục phát triển, bằng cách đưa ra 1 ngày nghỉ cuối tuần.
Và cuối cùng những người Sumerian và những người bà con đầu nguồn của họ đã
phát minh ra đơn vị đo mà ta gọi là tiền. Cho đến lúc đó thì sự trao đổi hàng
hóa và dịch vụ đã đóng 1 vai trò thực sự quan trọng trong nền kinh tế mới và 1
chuẩn mực chung là rất cần thiết để tất cả các loại hàng hóa đều được đo lường,
đều được định giá. Cuối cùng thì 1 con bò đáng giá bao nhiêu? Hay 1 cái bình?
Hoặc 1 tên nô lệ? và những chuẩn giá trị mang tính quy ước này sẽ được sử dụng
như 1 vật ngang giá trong trao đổi, mà bạn có thể dùng để mua các vật dụng, và
định giá công lao động – tức là trả lương.
 
Vì vậy chuẩn đầu tiên được sử dụng có lẽ
là lúa mạch, 1 thứ thiết yếu của cuộc sống. Trên thực tế, trả lương và trả tiền
thuê nhà đất là hình thức chuyển
đổi phổ biến nhất, dùng lúa
mạch trong suốt 2000 năm. Thậm chí cho đến khi Hammurabi ra đời, khoảng từ 1800
đến 1700 TCN. Nhưng sau đó là kim loại, cụ thể là bạc và đồng (cho những giao dịch
nhỏ) đã được thừa nhận là vật ngang giá thuận tiện nhất. Thế kỷ thứ VIII TCN,
vua Assyri đã bắt đầu đóng dấu trên những thanh bạc. Vào TK thứ VII TCN, các vị
vua Lydian bắt đầu làm đồng xu như thế này. Nhưng ban đầu giá trị của bạc hay
đồng trong trao đổi không phải là giá trị quy ước mà là lượng kim loại trong nó.
Như vậy bạn phải cân, 1 chút bất tiện.
 
Dù vậy, sự chấp nhận vật ngang giá bằng
kim loại mang tính quy ước đã đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp từ nền kinh tế tự
nhiên trong đó các vật dụng được đổi chác trực tiếp sang nền kinh tế tiền bạc,
trong đó mọi thứ đều có thể được định giá, bằng rất nhiều đồng bạc hoặc nhiều
bó lúa mạch. Và kết quả của việc này là bạn có thể đánh giá tài sản của ai đó
không phải ở thực phẩm, ở nô lệ hay các vật dụng khác (chính chúng cũng có thể
bị tiêu thụ, sử dụng hay thưởng thức) mà bằng 1 vật ngang giá trừu tượng chung
thứ không thể được tiêu thụ mà chỉ có thể được trao đổi để lấy bất kỳ vật dụng
hay dịch vụ hữu ích nào. Vì vậy người sản xuất có thể sản xuất chỉ để bán ra
thị trường chứ không phải cho chính họ hoặc lao động cho 1 người có nhu cầu gì
đó và sẵn sàng trả công cho anh ta. Bạn có thể sản xuất cho thị trường, bạn có
thể tự định giá cho thị trường. Và bạn cũng có thể thể đổi nó đi, và dùng nó để lấy những gì bạn muốn ở 1 thời điểm khác.
Thêm nữa vật ngang giá mới có thuộc tính như lúa mì, lúa mạch và gia súc: nó có
thể tái tạo, nó có thể sinh sôi. Giống như ngũ cốc, giống như thú nuôi. Tiền có
thể xem như nguồn vốn và có thể được sử dụng để đảm bảo nguồn thu tức là lợi
nhuận và nếu bạn cho vay bạn sẽ được lãi. Vì vậy cho đến thời Hammurabi, khoảng
3800 năm trước, xã hội rất cần 1 hệ thống pháp luật, và bộ luật Hammurabi ra
đời. Chúng ta sẽ xem xét nó trong chương trình tiếp theo….
==Xem thêm==
*[[Lưỡng Hà]]