Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thạch Kính Đường”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 7:
| ghi chú hình=
| chức vị = Hoàng đế Hậu Tấn
| tại vị = [[28 tháng 11]] năm 936<ref name=CNDS75>''[[Cựu Ngũ Đại sử]]'', [[:zh:s:舊五代史/卷75|quyển 75]].</ref><ref name=AS>[http://sinocal.sinica.edu.tw [[Viện Nghiên cứu Trung ương (Đài Loan)]] Chuyển hoán lịch Trung-Tây 2000 năm].</ref> – [[28 tháng 7]] năm 942
| kế nhiệm = [[Thạch Trọng Quý]]
| vợ = [[Lý hoàng hậu (Hậu Tấn)|Lý hoàng hậu]]
Dòng 22:
| nơi an táng = Hiển lăng
}}
'''Hậu Tấn Cao Tổ''' (30 tháng 3 năm 892<ref name=CNDS75/> – 28 tháng 7 năm 942<ref name=TTTG283>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷283|quyển 283]].</ref>), tên thật là '''Thạch Kính Đường''' (石敬瑭),
▲'''Hậu Tấn Cao Tổ''' (30 tháng 3 năm 892<ref name=CNDS75/> – 28 tháng 7 năm 942<ref name=TTTG283>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷283|quyển 283]].</ref>), tên thật là '''Thạch Kính Đường''' (石敬瑭), trị vì từ tháng 11 âm lịch năm [[936]] tới tháng 6 âm lịch năm [[942]] với niên hiệu Thiên Phúc. Ông vốn là người [[Sa Đà]], vị [[hoàng đế]] đầu tiên của [[hậu Tấn|nhà Hậu Tấn]], vương triều thứ 3 trong 5 vương triều Ngũ đại, thời [[Ngũ Đại Thập Quốc|Ngũ đại Thập quốc]]. Trước khi lên ngôi, ông từng là con rể vua [[Hậu Đường Minh Tông]] Lý Tự Nguyên (926-934).
Năm [[934]], Hậu Đường Mẫn Đế [[Lý
▲Tổ tiên của Thạch Kính Đường là người [[Trung Á]], theo người [[Sa Đà]] di cư tới [[Thái Nguyên (Sơn Tây)|Thái Nguyên]]. Cha đẻ của ông là [[Thạch Thiệu Ung]], mẹ đẻ là [[Hiếu Nguyên Ý hoàng hậu|Hà thị]]. Thạch Thiệu Ung theo cha con [[Lý Khắc Dụng]] chinh chiến, làm quan tới Minh Châu [[thứ sử]]. Thạch Kính Đường từ nhỏ đã được [[Hậu Đường Minh Tông|Lý Tự Nguyên]] (sau này là Hậu Đường Minh Tông) đánh giá cao, cho chỉ huy thân binh và gả con gái cho. Năm Đồng Quang thứ 4 (926) thời [[Hậu Đường Trang Tông]], tại [[Ngụy Châu]] xảy ra binh biến, Thạch Kính Đường thúc giục Lý Tự Nguyên đem quân vào Biện Châu, chuyển hướng tấn công vào [[Lạc Dương]], giết Hậu Đường Trang Tông rồi tự mình lên ngôi Hoàng đế, gọi là Hậu Đường Minh Tông. Sau khi Tự Nguyên lên ngôi Thạch Kính Đường đã giữ chức vụ [[tiết độ sứ]] tại các trấn Bảo Nghĩa, Tuyên Vũ, Hà Đông.
Năm 936, Thạch Kính Đường nổi dậy chống Hậu Đường, ông cầu viện sự giúp đỡ của [[nhà Liêu|Khiết Đan]], cắt 16 châu cho Khiết Đan sau khi giành được quyền lực, một hành động có tác động đến tình thế chính trị Trung Quốc trong nhiều năm sau đó.
▲Năm [[934]], Hậu Đường Mẫn Đế [[Lý Tùng Hậu]] chuyển Thạch Kính Đường tới làm tiết độ sứ Thành Đức. Mẫn Đế thảo phạt Lộ vương [[Lý Tùng Kha]] bị thất bại, chạy tới [[Vệ Châu]], cầu viện Thạch Kính Đường, nhưng bộ hạ của Thạch Kính Đường lại giết sạch tùy tòng của Mẫn Đế và giam cầm Mẫn Đế tại Vệ Châu. Cuối cùng Mẫn Đế bị Lý Tùng Kha cử người tới giết chết.
==Thân thế==
''[[Cựu Ngũ Đại sử]]'' viết rằng Thạch Kính Đường là hậu duệ của Đại phu Thạch Thước (石碏) của [[Vệ (nước)|nước Vệ]] thời [[Xuân Thu]], và Thừa tướng Thạch Phấn (石奮) của [[nhà Hán|triều Hán]]. Khi triều Hán suy, [[Quan Trung|Quan]]-[[Tam Phụ|Phụ]] loạn, tử tôn của Thạch Phấn dời về phía tây, định cư tại Cam châu<ref
Thạch Kính Đường là đệ nhị tử của Nghiệt Liệt Kê, sinh ngày 28 tháng 2 năm Cảnh Phúc thứ 1 ([[30 tháng 3]] năm 892), tức năm Nhâm Tý, tại lý Phần Dương thuộc [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]], mẫu thân của ông là Hà thị.<ref name=CNDS75/>
== Phụng sự Tấn ==
Sau khi triều Đường sụp đổ vào năm 907, lãnh địa mà Lý Khắc Dụng cát cứ trở thành nước [[Tấn (Ngũ Đại Thập Quốc)|Tấn]], và sau khi Lý Khắc Dụng mất vào năm 908, Lý Tồn Úc kế vị Tấn vương, tiếp tục kình địch với nước thay thế triều Đường là [[nhà Hậu Lương|Hậu Lương]] tại [[Trung Nguyên]].<ref>''Tư trị thông giám'', [[:zh:s:資治通鑑/卷266|quyển 266]].</ref>
Tháng 2 năm Thiên Hựu thứ 13 (916), quân Hậu Lương của Thượng tướng [[Lưu Tầm]] đến sát chân thành Thanh Bình, đánh úp quân của Lý Tồn Úc đến từ Cam Lăng. Thạch Kính Đường lĩnh hơn mười kị binh thâm nhập đột kích, được Lý Tồn Úc khen ngợi, ban thưởng đặc biệt, do vậy mà có được danh tiếng. Năm sau, quân Tấn giao chiến với Lưu Tầm tại tây bắc Sân, Thạch Kính Đường và Lý Tự Nguyên đều bị hãm trên chiến trường, Thạch Kính Đường rút thân kiếm, phản phục chuyển đấu, đuổi Lưu Tầm phía đông thành Cố Nguyên. Năm Thiên Hựu thứ 15 (918), khi Lý Tự Nguyên bị tướng Hạ Côi của Hậu Lương bức bách, Thạch Kính Đường là hậu điện và đánh bại hơn 500 kị binh Hậu Lương. Tháng 12 năm đó (đầu năm 919), quân Tấn và Hậu Lương đại chiến tại Hồ Liễu pha<ref
== Phụng sự Hậu Đường ==
=== Thời Trang Tông ===
Năm 923, Lý Tồn Úc xưng đế, lập quốc [[Hậu Đường]], sau đó tiến hành một chiến dịch diệt Hậu Lương trong cùng năm, Lý Tự Nguyên đóng vai trò nổi bật trong chiến dịch.<ref>''Tư trị thông giám'', [[:zh:s:資治通鑑/卷272|quyển 272]].</ref> Thạch Kính Đường và [[Lý Tòng Kha]]<ref
Sau khi chinh phục được [[Tiền Thục]], năm 926, Hậu Đường Trang Tông cho sát hại hai danh tướng là [[Quách Sùng Thao]] và [[Lý Kế Lân]], khiến quân đội Hậu Đường trên dưới đều lo sợ và tức giận. Trang Tông phái Lý Tự Nguyên đi trấn áp binh biến tại Nghiệp Đô<ref
=== Thời Minh Tông ===
Đương thời, hoàng tử của Trang Tông là Ngụy vương [[Lý Kế Ngập]] đang đem quân chinh Thục trở về, hướng về Lạc Dương. Lý Tự Nguyên lo sợ sẽ xảy ra rỗi loạn, bèn bổ nhiệm Thạch Kính Đường làm Thiểm châu<ref
Sang tháng 5, Thạch Kính Đường được thăng làm Quang lộc đại phu, kiểm hiệu tư đồ, đảm nhiệm Bảo Nghĩa<ref
Tháng 10 năm đó, do Tuyên Vũ<ref
Tháng 2 năm Trường Hưng thứ 1 (930), Minh Tông nam giao lễ tất, thăng Thạch Kính Đường làm Kiểm hiệu thái úy, tăng thực ấp 500 hộ. Đương thời, Nghiệp Đô là nơi phồn phú, dân tranh tụng nhiều, Thạch Kính Đường lệnh để hòm thư ở cửa phủ và thường xuyên xem xét, xử nhiều vụ án và
Tháng 9 năm đó, hai tiết độ sứ lớn tại Thục (do Trang Tông bổ nhiệm) là Tây Xuyên<ref
Lý Tòng Vinh ghen tị với Lý Tòng Hậu, xem mình là người kế vị phù hợp do là mẫu huynh, còn khinh thường hà hiếp bá quan. Thê của Thạch Kính Đường lúc này được phong tước Vĩnh Ninh công chúa- có sinh mẫu là Tào hoàng hậu, còn mẫu thân của Lý Tòng Vinh là Hạ thị, công chúa và Lý Tòng Vinh ganh ghét lẫn nhau. Thạch Kính Đường không muốn cộng sự với Lý Tòng Vinh, thường muốn được bổ nhiệm ở ngoài kinh thành để tránh họa. Ngày Đinh Hợi (9) tháng 11 (9 tháng 12), Minh Tông bổ nhiệm Thạch Kính Đường làm Bắc Kinh lưu thủ, Hà Đông<ref
Cuối năm 933, Lý Tự Nguyên lâm trọng bệnh, Lý Tòng Vinh dùng vũ lực đoạt lấy quyền kiểm soát triều đình, song thất bại dưới tay của các Xu mật sứ Chu Hoằng Chiêu và Phùng Vân, và bị giết. Sau khi Lý Tự Nguyên mất, Lý Tòng Hậu đến Lạc Dương và tức hoàng đế vị vào ngày Quý Mão (1) tháng 12 (20 tháng 12)<ref name=TTTG278/>
Dòng 64:
Đến ngày Mậu Tý (17) tháng 1 năm Giáp Ngọ (3 tháng 2 năm 934), Lý Tòng Hậu cho Thạch Kính Đường kiêm ''Trung thư lệnh''.<ref name=TTTG278/>
Chu Hoằng Chiêu và Phùng Vân nắm giữ triều chính, hai người này có ngờ vực với Thạch Kính Đường và Lý Tòng Kha do từng lập được đại công dưới quyền Minh Tông.<ref name=TTTG278/>
Lý Tòng Kha bèn tiến hành nổi dậy, Lý Tòng Hậu phái [[Vương Tư Đồng]] đem quân đi trấn áp, quân của Vương Tư Đồng sụp đổ sau khi Thiên bì Dương Tư Quyền (楊思權) tiến hành binh biến và đầu hàng Lý Tòng Kha. Lý Tòng Kha hành quân về Lạc Dương.<ref name=TTTG279/> Đêm ngày Mậu Thìn (28) tháng 3 (14 tháng 5), Lý Tòng Hậu chạy khỏi Lạc Dương với chỉ 50 kị binh, hướng đến Ngụy châu
=== Thời Lý Tòng Kha ===
Lý Tòng Kha và Thạch Kính Đường đều là người dũng lực thiện đấu, là thân tín của Minh Tông, song trong lòng ganh đua nhau, vốn không ưa lẫn nhau. Sau khi Lý Tòng Kha tức vị, Thạch Kính Đường bất đắc dĩ nhập triều, sau tang lễ của Minh Tông vẫn không dám xin về Hà Đông. Thạch Kính Đường có bệnh từ lâu, Tào thái hậu và Ngụy Quốc công chúa thường xin cho Thạch Kính Đường, song tướng tá của Lý Tòng Kha nhiều người khuyên nên giữ Thạch Kính Đường lại kinh thành. Tuy nhiên, Xu mật sứ
Sau khi Thạch Kính Đường trở về Hà Đông, [[nhà Liêu|Khiết Đan]] nhiều lần xâm nhập các trấn phía bắc của Hậu Đường. Thạch Kính Đường và Triệu Đức Quân nhiều lần yêu cầu tăng viện để chống Khiết Đan, và họ được phép tích binh lính và vật tư tại trấn của họ. Thạch Kính Đường lo sợ rằng Lý Tòng Kha có thể vẫn nghi ngờ mình, ông hối lộ cho hầu cận của Tào thái hậu nhằm dò xét mật mưu của Lý Tòng Kha tại Lạc Dương, biết rõ sự tình, ngoài ra hai nhi tử của Thạch Kính Đường cũng làm nội sử tại Lạc Dương.<ref name=TTTG279/> (Tên hai người được ghi trong ''[[Tân Ngũ Đại sử]]'' là Thạch Trọng Anh (石重英) và Thạch Trọng Dận (石重胤),<ref name=NHFD17>''Tân Ngũ Đại sử'', [[:zh:s:新五代史/卷17|quyển 17]].</ref> và troing ''[[Tư trị thông giám]]'' là Thạch Trọng Dận (石重殷) và Thạch Trọng Duệ (石重裔).<ref name=TTTG280/>)
Trong năm 935, khi một sứ thần của triều đình đưa quân phục đến cho binh sĩ của Thạch Kính Đường, binh sĩ của Thạch Kính Đường nhiều lần hô vạn tuế. Thạch Kính Đường sợ hãi, Mạc liêu Đoàn Nghi Hiêu (段希堯) thỉnh
== Nổi dậy chống Lý Tòng Kha ==
Đến mùa xuân năm Bính Thân (936), Thạch Kính Đường tận thu của cải của mình tại Lạc Dương và cùng các đạo giả về Hà Đông, tuyên bố là để giúp cho quân phí, song mọi người đều cho rằng Thạch Kính Đường có ý muốn làm phản. Khi thê của Thạch Kính Đường là Tấn quốc trưởng công chúa đến Lạc Dương chúc thọ Lý Tòng Kha, sau khi chúc rượu và xin về Hà Đông, Lý Tòng Kha say và nói "Sao không ở lại thêm mà vội về. Muốn cùng Thạch lang phản chăng". Thạch Kính Đường biết tin thì càng lo sợ.<ref name=TTTG280/>
Ngày Tân Mão (3) tháng 5 năm Bính Thân (26 tháng 5 năm 936), theo đề xuất của Tiết Văn Ngộ, Lý Tòng Kha hạ chỉ chuyển Thạch Kính Đường từ Hà Đông đến Thiên Bình. Thạch Kính Đường lo sợ, nói với tướng tá rằng Chúa thượng từng hứa sẽ không bao giờ phế trừ hoặc thay thế ông khỏi Hà Đông, nay lại làm trái, nói rằng sẽ xưng bệnh để từ chối, nếu triều đình phát binh thì sẽ nổi dậy. Mạc liêu Đoàn Hi Nghiêu phản đối, song Thạch Kính Đường thấy đây là người thật thà nên không trách tội. Tiết độ sứ phán quan [[Triệu Oánh]] khuyên Thạch Kính Đường đến Thiên Bình, song Đô áp nha Lưu Tri Viễn và Chưởng thư ký [[Thang Duy Hàn]] thì khuyến khích kháng cự, Thạch Kính Đường nghe theo. Trước đây, do nghi kị Thạch Kính Đường nên triều đình cho Dương Ngạn Tuân làm Bắc Kinh lưu thủ nhằm báo lại tình hình; Dương Ngạn Tuân nói rằng không rõ binh lương của Hà Đông được bao nhiêu mà có thể địch được triều đình, hầu cận của Thạch Kính Đường thỉnh giết Ngạn Tuân, Thạch Kính Đường không chấp thuận. Ngày Mậu Tuất (10) tháng 5 (2 tháng 6), Chiêu Nghĩa tiết độ sứ Hoàng Phủ Lập tấu Thạch Kính Đường làm phản, Thạch Kính Đường dân biểu "Đế, dưỡng tử, không hợp thừa tự, thỉnh truyền vị cho Hứa vương (tức [[Lý Tòng Ích]])". Lý Tòng Kha quẳng biểu của Thạch Kính Đường xuống đất, ban chiếu phúc đáp, nói rằng quan hệ giữa Thạch Kính Đường với Lý Tòng Hậu vốn không lãnh đạm, chuyện ở Vệ châu mọi người đều biết, và Lý Tòng Ích không được mọi người ủng hộ. Cùng tháng, Lý Tòng Kha bổ nhiệm Trương Kính Đạt kiêm Thái Nguyên tứ diện binh mã đô bộ thự, cùng các tướng khác đem quân triều đình thảo phạt Thạch Kính Đường. Lý Tòng Kha cũng cho bắt giữ các nhi tử của Thạch Kính Đường, cùng tụng đệ Nghi châu đô chỉ huy sử Thạch Kính Đức (石敬德), và sát hại. Tụng đệ của Thạch Kính Đường là Chương Thánh đô chỉ huy sứ Thạch Kính Uy (石敬威) thì tự sát.<ref name=TTTG280/>▼
Trương Kính Đạt bao vây Thái Nguyên, song không thể nhanh chóng chiếm thành do Lưu Tri Viễn có tài thủ thành. Thạch Kính Đường khiển sứ cầu cứu Khiết Đan, lệnh Thang Duy Hàn thảo biểu xưng thần với
▲Ngày Tân Mão (3) tháng 5 năm Bính Thân (26 tháng 5 năm 936), theo đề xuất của Tiết Văn Ngộ, Lý Tòng Kha hạ chỉ chuyển Thạch Kính Đường từ Hà Đông đến Thiên Bình. Thạch Kính Đường lo sợ, nói với tướng tá rằng Chúa thượng từng hứa sẽ không bao giờ phế trừ hoặc thay thế ông khỏi Hà Đông, nay lại làm trái, nói rằng sẽ xưng bệnh để từ chối, nếu triều đình phát binh thì sẽ nổi dậy. Mạc liêu Đoàn Hi Nghiêu phản đối, song Thạch Kính Đường thấy đây là người thật thà nên không trách tội. Tiết độ sứ phán quan [[Triệu Oánh]] khuyên Kính Đường đến Thiên Bình, song Đô áp nha Lưu Tri Viễn và Chưởng thư ký [[Thang Duy Hàn]] thì khuyến khích kháng cự, Thạch Kính Đường nghe theo. Trước đây, do nghi kị Thạch Kính Đường nên triều đình cho Dương Ngạn Tuân làm Bắc Kinh lưu thủ nhằm báo lại tình hình; Dương Ngạn Tuân nói rằng không rõ binh lương của Hà Đông được bao nhiêu mà có thể địch được triều đình, hầu cận của Thạch Kính Đường thỉnh giết Ngạn Tuân, Thạch Kính Đường không chấp thuận. Ngày Mậu Tuất (10) tháng 5 (2 tháng 6), Chiêu Nghĩa tiết độ sứ Hoàng Phủ Lập tấu Thạch Kính Đường làm phản, Thạch Kính Đường dân biểu "Đế, dưỡng tử, không hợp thừa tự, thỉnh truyền vị cho Hứa vương (tức [[Lý Tòng Ích]])". Lý Tòng Kha quẳng biểu của Thạch Kính Đường xuống đất, ban chiếu phúc đáp, nói rằng quan hệ giữa Thạch Kính Đường với Lý Tòng Hậu vốn không lãnh đạm, chuyện ở Vệ châu mọi người đều biết, và Lý Tòng Ích không được mọi người ủng hộ. Cùng tháng, Lý Tòng Kha bổ nhiệm Trương Kính Đạt kiêm Thái Nguyên tứ diện binh mã đô bộ thự, cùng các tướng khác đem quân triều đình thảo phạt Thạch Kính Đường. Lý Tòng Kha cũng cho bắt giữ các nhi tử của Thạch Kính Đường, cùng tụng đệ Nghi châu đô chỉ huy sử Thạch Kính Đức (石敬德), và sát hại. Tụng đệ của Thạch Kính Đường là Chương Thánh đô chỉ huy sứ Thạch Kính Uy (石敬威) thì tự sát.<ref name=TTTG280/>
▲Trương Kính Đạt bao vây Thái Nguyên, song không thể nhanh chóng chiếm thành do Lưu Tri Viễn có tài thủ thành. Thạch Kính Đường khiển sứ cầu cứu Khiết Đan, lệnh Thang Duy Hàn thảo biểu xưng thần với Hoàng đế Khiết Đan [[Liêu Thái Tông|Da Luật Đức Quang]], còn thỉnh sẽ tôn Da Luật Đức Quang làm cha, đến khi thắng lợi sẽ cắt Lô Long cùng các châu ở phía bắc Nhạn Môn quan cho Khiết Đan. Lưu Tri Viễn can gián, nói rằng xưng thần có thể được, còn tôn Da Luật Đức Quang làm cha thì thái quá, và nên biếu của cải chứ không nên cắt nhượng đất đai, sợ sẽ sinh đại họa cho Trung Quốc, song Thạch Kính Đường không nghe theo. Da Luật Đức Quang nhận được biểu thì rất vui, phục thư nói rằng giữa thu sẽ đến cứu viện. Da Luật Đức Quang sau đó giành thắng lợi trước quân Hậu Đường dưới quyền Trương Kính Đạt, tàn quân Trương Kính Đạt sa đó bị liên quân Khiết Đan và Hà Đông bao vây tại Tấn An trại gần Thái Nguyên.<ref name=TTTG280/>
Ngày Đinh Dậu (12) tháng 11 (28 tháng 11), Da Luật Đức Quang tuyên bố Thạch Kính Đường có tố chất làm chủ Trung Nguyên, lập Thạch Kính Đường làm Thiên tử. Theo nghi thức, Thạch Kính Đường từ chối vài lần, được tướng lại thuyết phục, rồi chấp nhận. Ngày hôm đó, Da Luật Đức Quang cho lập sách thư, mệnh Thạch Kính Đường là Đại Tấn hoàng đế, Thạch Kính Đường thụ chiếu rồi tức hoàng đế vị, tức Hậu Tấn Cao Tổ.<ref name=TTTG280/>
Hàng 88 ⟶ 86:
Lý Tòng Kha đem quân thân chinh, song lại dừng lại giữa đường vào tháng 11 nhuận (tháng 1 năm 937) rồi lệnh cho Triệu Đức Quân và Phạm Diên Quang đem quân đến giải vây cho Tấn An. Tuy nhiên, khi đến gần Tấn An, Triệu Đức Quân dừng lại và bí mật liên hệ với Da Luật Đức Quang, đề nghị Da Luật Đức Quang ủng hộ mình làm hoàng đế, hứa sẽ cho Thạch Kính Đường giữ Hà Đông. Da Luật Đức Quang thấy binh lực của Triệu Đức Quân thịnh cường, Phạm Diên Quang lại ở phía đông, định chấp thuận đề nghị của Triệu Đức Quân. Hậu Tấn Cao Tổ biết chuyện thì rất sợ hãi, lập tức cử Thang Duy Hàn đến thuyết phục Da Luật Đức Quang, Da Luật Đức Quang cuối cùng từ chối đề nghị của Triệu Đức Quân.<ref name=TTTG280/>
Tại Tấn An trị, phó tướng của Trương Kính Đạt là Dương Quang Viễn giết chủ tướng và đầu hàng liên quân Khiết Đan và Hậu Tấn. Da Luật Đức Quang trao hàng binh Hậu Đường cho Hậu Tấn Cao Tổ, liên quân cùng chuẩn bị tiến về Lạc Dương. Liên quân đánh tan quân của Triệu Đức Quân tại Đoàn Bách cốc<ref
== Trị vì ==
Các tiết độ sứ tại lãnh thổ Hậu Đường ban đầu đều chính thức quy phục Hậu Tấn Cao Tổ, tuy vậy Thiên Hùng tiết độ sứ Phạm Diên Quang lo sợ bị bãi chức, và cũng có mong muốn làm hoàng đế, do vậy định nổi dậy. Tháng 3 năm Đinh Dậu (937), nhận thấy Phạm Diên Quang định làm phản, Tang Duy Hàn thỉnh Hậu Tấn Cao Tổ dời đô đến Đại Lương, cho rằng nơi này thuận lợi về giao thông, phồn vinh, còn Lạc Dương rất nguy hiểm do gần thủ phủ của Thiên Hùng, Hậu Tấn Cao Tổ chấp thuận và dời Lạc Dương vào ngày Canh Thìn (27), tức 10 tháng 5.<ref name=TTTG281>''Tư trị thông giám'', [[:zh:s:資治通鑑/卷281|quyển 281]].</ref>
Sang tháng 6 ÂL, Phạm Diên Quang nổi dậy, Hậu Tấn Cao Tổ huy động binh sĩ trấn áp Phạm Diên Quang, các đạo quân chính nằm dưới quyền Thị vệ đô quân sứ Dương Quang Viễn và Hộ thánh đô chỉ huy sứ [[Đỗ Trọng Uy]]. Hậu Tấn rơi vào hỗn loạn một thời gian sau khi Phạm Diên Quang thuyết phục được tướng Hậu Tấn là Trương Tòng Tân nổi dậy tại Lạc Dương, Trương Tòng Tân còn giết đươch các hoàng tử của Hậu Tấn Cao Tổ là Thạch Trọng Tín (石重信) và Thạch Trọng Nghệ (石重乂). Binh sĩ của Dương Quang Viễn cũng cố thuyết phục chủ tướng nổi dậy, ủng hộ người này làm hoàng đế, song Dương Quang Viễn từ chối đề nghị này. Đỗ Trọng Uy nhanh chóng đánh bại Trương Tòng Tân, Phạm Diên Quang thấy tình thế bất lợi nên đề nghị đầu hngf. Ban đầu, Hậu Tấn Cao Tổ từ chối chấp thuận đầu hàng, song Dương Quang Viễn không thể nhanh chóng chiếm được thành Quảng Tấn. Đến thu năm 938, Hậu Tấn Cao Tổ chấp thuận cho Phạm Diên Quang đầu hàng,
Tháng 8 âl, Hậu Tấn Cao Tổ thượng tôn hiệu cho Da Luật Đức Quang và [[Thuật Luật Bình|Thuật Luật thái hậu]] của Khiết Đan, cho hai lão thần là [[Lưu Hú]] và [[Phùng Đạo]] làm sách lễ sứ. Thông qua sách lễ sứ, Hậu Tấn Cao Tổ phụng biểu xưng thần, gọi Da Luật Đức Quang là "phụ hoàng đế", mỗi khi sứ giả Khiết Đan đến, Hậu Tấn Cao Tổ đều bái thụ chiếu sắc ở biệt điện, mỗi năm dâng của cải cho Khiết Đan, ngoài ra còn tặng của cải cho thành viên hoàng thất các đại thần của Khiết Đan. Sau này, Hậu Tấn Cao Tổ còn xưng là "nhi hoàng đế" trong thư gửi đến hoàng đế Khiết Đan. Điều này khiến các quan viên và thường dân của Hậu Tấn thấy bị sỉ nhục, song Hậu Tấn và Khiết Đan hòa bình trong thời gian trị vì còn lại của Hậu Tấn Cao Tổ.<ref name=TTTG281/>
Tháng 4 năm Canh Tý (940), khi Hậu Tấn Cao Tổ muốn thay thế An Viễn<ref
Thành Đức tiết độ sứ [[An Trọng Vinh]] dự tính nổi dậy chống Hậu Tấn, liên minh với Sơn Nam Đông đạo<ref
Tháng 11 âl, An Tòng Tiến nổi dậy, Thạch Trọng Quý cùng các quan viên cho [[Cao Hành Chu]] chỉ huy quân đội trấn áp. Hay tin, An Trọng Vinh cũng nổi dậy, Hậu Tấn Cao Tổ khiển Đỗ Trọng Uy đem quân đi trấn áp. Cao Hành Chu nhanh chóng đánh bại quân tiên phong của An Tròng Tiến, buộc An Tòng Tiến phải trở lại thủ phủ Tương châu của Sơn Nam Đông đạo. An Trọng Vinh ban đầu giành được thắng lợi trong giao tranh, song do bộ tướng Triệu Ngạn Chi cố đầu hàng quân triều đình nên quân Thành Đức tan rã, An Trọng Vinh phải chạy về thủ phủ Trấn châu.<ref name=TTTG282/> Sang năm sau, một thuộc hạ của An Trọng Vinh mở cổng thành đầu hàng, quân triều đình tiến vào và giết An Trọng Vinh. (An Tòng Tiến bị đánh bại sau khi Hậu Tấn Cao Tổ mất.)<ref name=TTTG283/>
Hậu Tấn
== Gia đình ==
Hàng 126 ⟶ 123:
** Ngô vương [[Hậu Tấn Xuất Đế|Thạch Trọng Quý]] (sau này là [[Hậu Tấn Xuất Đế]])
== Chú thích ==
{{tham khảo|group="c"}}
==Ghi chú==
{{Tham khảo}}
|