Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng Hà”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 15:
'''Hoàng Hà''' ([[tiếng Hán]]: 黃河; [[pinyin]]: ''Huáng Hé''; [[Wade-Giles]]: ''Hwang-ho'', nghĩa là "sông màu vàng"), là con [[sông]] dài thứ hai ở [[Trung Quốc]] với chiều dài 5.464 [[kilômét|km]] sau sông [[Dương Tử]]. Cũng như các tên gọi khác có nguồn gốc từ Trung Quốc, tiếng Việt gọi sông này là '''sông Hoàng Hà''', tuy nhiên về mặt ngữ nghĩa có vẻ không chính xác vì ''Hà'' đã có nghĩa là ''sông'' còn ''Hoàng'' chỉ [[màu vàng]] của nước sông này. Phần còn lại của bài này sẽ sử dụng tên gọi Hoàng Hà.
 
Hoàng Hà bắt nguồnwuồn từ dãy núi [[Côn Lôn]] ở phía tây bắc tỉnh [[Thanh Hải]], từ độ cao 4.500 [[mét|m]] trong vùng lòng chảo [[Yekuzonglie]] nằm ở phía bắc của dãy núi [[Bayankara]] (hay Ba Nhan Khách Lạp) trên [[cao nguyên Thanh Tạng]].
 
Từ đầu nguồn của nó, con sông chảy theo hướng nam, sau đó tạo ra một chỗ uốn cong về hướng đông nam và sau đó lại chảy theo hướng nam một lần nữa cho đến khi tới thành phố [[Lan Châu]], thủ phủ của tỉnh [[Cam Túc]], là nơi mà điểm uốn cong lớn về phía bắc, bắt đầu. Con sông chảy về phía bắc qua Khu tự trị dân tộc Hồi [[Ninh Hạ]] tới khu tự trị [[Nội Mông]], đoạn cong này gọi là Hà Sáo. Sau đó con sông này lại đổi hướng, chảy gần như thẳng về phía nam, tạo ra ranh giới của hai tỉnh [[Thiểm Tây]] và [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]]. Khoảng 130 km về phía đông bắc của thành phố [[Tây An]], thủ phủ tỉnh Thiểm Tây, Hoàng Hà lại đổi hướng để chảy về phía đông. Nó chảy tới những vùng đất trũng ven biển ở miền đông Trung Quốc gần thành phố [[Khai Phong]] và chảy qua chúng về phía cửa sông của nó theo hướng đông bắc.
Dòng 21:
Nó tưới tiêu cho một khu vực rộng 944.970 km vuông (364.417 dặm vuông), nhưng do tính chất khô cằn chủ đạo của vùng này (không giống như phần phía đông thuộc [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]] và [[Sơn Đông]]) nên lưu lượng nước của nó tương đối nhỏ. Tính theo lưu lượng nó chỉ bằng 1/15 của sông [[Dương Tử|Trường Giang]] và 1/5 của sông [[Châu Giang (Trung Quốc)|Châu Giang]], mặc dù khu vực tưới tiêu của con sông cuối (Châu Giang) chưa bằng một nửa của Hoàng Hà.
 
Trong lịch sử hàng ngànwàn năm của Trung Quốc, Hoàng Hà vừa đem lại lợi íchíz vừa đem lại tai họa cho người dân, vì thế nó còn được coi là "Niềm kiêu hãnh của Trung Quốc" (pinyin: ''Zhōngguó de Jiāoào'') và "Nỗi buồn của Trung Quốc" (pinyin: ''Zhōngguó de Tòng''). Các ghi chép chỉ ra rằng, từ năm [[602]] đến ngày nay, con sông này đã ít nhất 5 lần đổi dòng và các con [[đê]] bao bọc đã vỡ không dưới 1.500 lần. Lần thay đổi dòng năm [[1194]] đã phá vỡ hệ thống tưới tiêu của [[sông Hoài]] trong gần 700 năm sau. Phù sa Hoàng Hà đã ngăn chặn dòng chảy của sông Hoài và làm hàng ngàn người mất nhà ở. Mỗi lần đổi dòng nó khi thì đổ ra biển [[Hoàng Hải]], khi thì ra [[vịnh Bột Hải]]. Hoàng Hà có dòng chảy như ngày nay từ năm [[1897]] sau lần đổi dòng cuối cùng năm [[1855]]. Hiện tại Hoàng Hà chảy qua [[Tế Nam]], thủ phủ của tỉnh [[Sơn Đông]] và đổ ra biển [[Bột Hải]] (vịnh Bột Hải).
 
Màu nước vàng của con sông là do phù sa mà nó mang theo. Hàng thế kỷ của việc bồi đắp và sự bao bọc của các con đê đã làm con sông này chảy ở độ cao lớn hơn so với đất nông nghiệp hai bên bờ, làm cho việc ngập lụt trở nên nguy hiểm hơn. Ngập lụt của Hoàng Hà đã gây ra sự chết chóc khủng khiếp trong lịch sử như năm [[1887]] Hoàng Hà đã giết chết khoảng 900.000-2.000.000 người và năm [[1931]] nó đã giết chết khoảng 1.000.000-3.700.000 người. Năm [[1938]], trong [[Chiến tranh Trung-Nhật]] lần thứ hai, quân đội của [[Tưởng Giới Thạch]] đã phá đê bao bọc Hoàng Hà để ngănwăn cản bước tiến của quân Nhật và làm ngập lụt một vùng rộng lớn làm chết khoảng 500.000-900.000 người.
 
Đôi khi người ta còn gọi nó là 濁流 (Trọc Lưu), nghĩa là ''dòng nước đục''. Thành ngữ Trung Quốc "Khi nước Hoàng Hà trong" ám chỉ điều không bao giờ xảy ra.