Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cây thường xanh”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
←Trang mới: “right|300px|thumb|Một phần chồi của cây [[Abies alba|Silver Fir cho thấy các lá đã được giữ đến 3 năm.]] Tron…” |
Alphama Tool, General fixes |
||
Dòng 1:
[[
Trong [[
* Cây sồi trường xuân, [[Ilex|cây nhựa ruồi]], [[
* Hầu hết các loại [[
Tên Latinh có hai phần sempervirens (theo nghĩa đen,
:''Acer sempervirens'' (cây thích - maple)
:''Cupressus sempervirens'' (cây bách - cypress)
Dòng 16:
== Những lý do để trở thành trường xuân hoặc rụng lá ==
[[
Các [[Cây thân gỗ|cây]] rụng lá thường mất đi lá của chúng như là một cách thích nghi với các mùa lạnh hoặc khô. Các cây trường xuân cũng rụng lá, nhưng mỗi cây rụng lá từ từ và không phải rụng hết tất cả một lần. Hầu hết các thực vật ở [[
Ở những vùng mà có lý do để trở thành dạng rụng lá (ví dụ mùa lạnh hoặc mùa khô), trở thành dạng trường xuân thường là để thích nghi với mức độ dinh dưỡng thấp. Các cây rụng lá mất đi chất dinh dưỡng mỗi khi chúng rụng lá. Ở những vùng ấm hơn, các chủng loài chẳng hạn như vài loài [[Chi Thông|thông]] và [[Họ Hoàng đàn|bách]] mọc trên đất nghèo chất dinh dưỡng và nền không ổn định. Với Rhododendron, một chi với nhiều loài trường xuân lá rộng, vài chủng loài mọc ở các khu rừng trưởng thành nhưng thường được tìm thấy ở phần đất có độ chua cao, nơi mà dưỡng chất ít có sẵn cho các loài thực vật. Ở các khu rừng [[
Ở các vùng khí hậu ôn đới, các loài trường xuân có thể hỗ trợ nhau sống sót; các bãi lá và kim của cây trường xuân có tỉ lệ cacbon-nito cao hơn so với lá của cây rụng lá, tạo cho đất độ chua hơn với hàm lượng nitơ trong đất thấp hơn. Những điều kiện này thích hợp cho sự phát triển cho trường xuân hơn và khó hơn đối với các cây rụng lá. Ngoài ra, nơi sinh sống tạo ra bởi các cây trường xuân có sẵn sẽ giúp các cây trường xuân con dễ sống sót hơn với mùa lạnh hay khô hạn.<ref>Aerts, R. (1995). [http://www.falw.vu.nl/nl/Images/Aerts1995_tcm19-94783.pdf "The advantages of being evergreen"]. ''Trends in Ecology & Evolution'' 10 (10): 402–407.</ref><ref>Matyssek, R. (1986) "Carbon, water and nitrogen relations in evergreen and deciduous conifers". ''Tree Physiology'' 2: 177–187.</ref><ref>Sobrado, M. A. (1991) "Cost-Benefit Relationships in Deciduous and Evergreen Leaves of Tropical Dry Forest Species". ''Functional Ecology'' 5 (5): 608–616.</ref>
Thực vật trường xuân và thực vật rụng lá có hầu hết các loại bệnh và côn trùng gây hại như nhau, nhưng với sự ôn nhiễm lâu dài, tro bụi và các chất độc trong không khí thì sẽ gây thương tổn cho thực vật trường xuân hơn là thực vật rụng lá (ví dụ như loài spruce picea vẫn còn trong các thành phố ở Châu Âu).
==Tham khảo==
{{
|