Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cá chó”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n đã xóa Thể loại:Esocidae; đã thêm Thể loại:Họ Cá chó dùng HotCat |
→Sinh trưởng: Alphama Tool |
||
Dòng 39:
Răng của cá chó không thể cắn đứt con mồi mà chỉ có chức năng giữ chặt con mồi và đẩy con mồi xuống thực quản nhờ vào chuyển động xen kẽ của hàm trên và hàm dưới. Dịch tiêu hóa của cá chó rất mạnh, có thể tiêu hủy không chỉ con mồi mà còn làm tiêu biến luôn cả lưỡi câu, muỗng thép hay dây kim loại. Do vậy, cá chó chẳng ngần ngại gì mà không tấn công và ăn cả những con cá đang bị mắc câu. Nhiều nơi người ta còn gọi cá chó là sói nước, bạo chúa ao hồ, hay cá mập nước ngọt. Khi những con cá chó lớn bị bắt hết, những con cá chó nhỏ hơn sẽ phát triển vì loại đi được 1 kẻ thù. Trong tự nhiên, cá chó lớn thường ăn thịt cá chó nhỏ hơn, tự tạo ra sự cân bằng sinh thái.
==Sinh trưởng==
Cá mái to hơn cá trống. Vào đầu xuân, khi băng tuyết bắt đầu tan ra thì cũng là lúc cá chó đẻ trứng bên rìa nước, thậm chí trên các đồng cỏ ngập nước do tuyết tan. Một con cá nặng 1,4
Con cá non vẫn bám vào thân cây cỏ, nhờ cái giác hút ở phía trước đầu cho đến khi lòng đỏ trứng được dùng hết. Lúc này con non bắt đầu chuyển sang ăn động vật không xương sống nhỏ. Phần lớn trứng và con non mới nở trở thành mồi cho cá chó lớn, [[cá rô]], [[cá tuế, chim nước]], thú nước và một số loại côn trùng. Chưa tới 0,1% trứng phát triển được đến lúc trưởng thành. Hầu hết thời gian cá chó non phải sống ẩn nấp, tránh kẻ thù. Nhờ thói quen ăn nhiều nên cá non lớn rất nhanh, trong vòng 1 năm đã dài đến 20
Cá chó lớn có hai kẻ thù chính: Cá mút đá và con người. Loại cá này thường bị người ta lùng bắt bởi chúng ăn nhiều loại cá có giá trị kinh tế. Người ta đã biết xem cá chó như là một loại cá dùng cho môn thể thao câu cá. Cá chó vẫn năng động ngay cả vào mùa đông nước giá lạnh, chúng lại rất háu ăn nên dễ bị mắc câu. Cá chó mái trong thời gian đẻ trứng thường xuất hiện không ở nơi nước cạn nên dễ dàng trở thành mồi của gấu, chó và những động vật ăn thịt khác.
|