Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Thế Hiển”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 4:
Ông quê ở làng Luyến Khuyết, huyện Đông Quan - tỉnh [[Nam Định]] thời [[nhà Nguyễn]] (nay là xã Thụy Phong, huyện [[Thái Thụy]], tỉnh [[Thái Bình]]). Đỗ Cử nhân năm [[Mậu Tý]] [[1828]], năm sau Kỷ Sửu [[1829]] đỗ [[Đồng tiến sĩ xuất thân|Tam giáp Đồng tiến sĩ]]<ref>[[Quốc triều khoa bảng lục]]</ref>. Vì thế dân gian thường gọi ông là "Ông Nghè Luyến Khuyết".
 
Trong quá trình làm quan, ông nổi tiếng cương trực, được [[vua]] [[Tự Đức]] tin dùng và lần lượt giữ chức Tham tri bộ Binh, bộ Hình... Năm [[1858]], khi quân [[Pháp]] [[Liên quân tấn công Đà Nẵng lần thứ nhất|tấn công]] [[Đà Nẵng]], Phạm Thế Hiển, khi đó đang là [[Tổng đốc]] [[Gia Định|Định]] [[Biên Hòa|Biên]] <ref>[[Đại Nam thực lục]], tập 7, đệ tứ kỷ quyển XIX, trang 579.</ref> đã được cử sang giữ chức vụ Tham tán Đại thần Quân thứ Quảng Nam (trông coi việc biên phòng tỉnh [[Quảng Nam]]), được Tự Đức cử làm Phó tướng cho [[Nguyễn Tri Phương]].
 
Sau khi quân Pháp đánh chiếm thành [[Gia Định]], ông được cử giữ chức vụ Quân thứ [[Gia Định]], cùng vào Nam với Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương, ra sức xây dựng Đại đồn Chí Hòa để bao vây và bức rút quân Pháp như chiến thuật đã dược vận dụng tại [[Đà Nẵng]].
 
Tuy nhiên, cuối năm [[Tân Dậu]] [[1861]], sau thời gian chuẩn bị kỹ càng, quân Pháp tấn công mãnh liệt đại đồn Chí Hòa. Đại đồn chỉ giữ được hơn một ngày thì bị thất thủ. Nguyễn Tri Phương phải lui quân về giữ [[Biên Hòa]]. Riêng Phạm Thế Hiển thì bị trọng thương và mất sau đó không lâu, hưởng dương 58 tuổi.

Xem: [[Trận Đại đồn Kỳ Hòa]]
 
== Tham khảo ==