Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cây thường xanh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Biconne (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Abies alba 02.jpg|right|300px|thumb|Một phần chồi của cây [[Abies alba|Silver Fir]] cho thấy các lá đã được giữ đến 3 năm.]]
 
Trong [[thực vật học]], '''thựccây vậtthường trường xuânxanh''' là loại [[thựcThực vật|cây]] có [[lá]] quanh năm, và luôn luôn xanh tươi, đúng như tên gọi. Điều này tương phản với các loại [[thực vậtcây rụng lá]], mà hoàn toàn rụng hết tán lá của chúng trong suốt [[mùa đông]] hay [[mùa khô]]. Có nhiều loại thựccây vậtthường trường xuânxanh khác nhau, gồm cả cây và [[cây bụi]]. ThựcCác vậtcây trườngthường xuânxanh bao gồm:
 
* Cây sồi trườngthường xuânxanh, [[Ilex|cây nhựa ruồi]], [[thực vật hạt trần]] "cổ" chẳng hạn như [[Ngành Tuế|cây mè]]
* Hầu hết các loại [[thực vật hạt kín]] từ các vùng khí hậu không có sương giá, chẳng hạn như khuynh diệp và các cây ở [[rừng mưa]].
 
Tên Latinh có hai phần sempervirens (theo nghĩa đen, "luôn luôn xanh") có liên quan đến bản chất trường"thường xuânxanh" của thực vậtcây, ví dụ:
:''Acer sempervirens'' (cây thích - maple)
:''Cupressus sempervirens'' (cây bách - cypress)
Dòng 13:
:''Ulmus parvifolia ‘Sempervirens’'' (cây du – elm)
 
Sự duy trì của lá ở các loài thựccây vậtthường trường xuânxanh biến đổi từ vài tháng (với các lá mới mọc ra liên tục ngay khi các lá cũ rụng xuống) đến vài thập kỷ (hơn 30 năm đối với cây [[Pinus longaeva|Bristlecone Pine]] ở bồn địa Great Basin).<ref>Ewers, F. W. & Schmid, R. (1981). "Longevity of needle fascicles of ''Pinus longaeva'' (Bristlecone Pine) and other North American pines". ''[[Oecologia]]'' 51: 107–115</ref>).
 
== Những lý do để trở thành trườngthường xuânxanh hoặc rụng lá ==
[[Hình:Live oak Georgetown.jpg|right|thumb|300px|Một [[Quercus virginiana|cây sồi miền Nam]] vào mùa đông.]]
 
Các [[Cây thân gỗ|cây]] rụng lá thường mất đi lá của chúng như là một cách thích nghi với các mùa lạnh hoặc khô. Các cây trườngthường xuânxanh cũng rụng lá, nhưng mỗi cây rụng lá từ từ và không phải rụng hết tất cả một lần. Hầu hết các thực vật ở [[rừng mưa nhiệt đới]] đều là trườngthường xuânxanh, thay thế lá từ từ quanh năm khi lá già và rụng, trong khi các loại mọc ở các vùng [[khí hậu]] khô theo mùa thì có thể là dạng trườngthường xuânxanh hoặc dạng rụng lá. Hầu hết các thực vật ở vùng khí hậu ấm áp [[ôn đới]] cũng là trườngthường xuânxanh. Ở các vùng khí hậu mát mẻ ôn đới thì ít có thực vậtcây trườngthường xuânxanh hơn, mà chỉ có các loài thuộc [[Ngành Thông|ngành thông]] chiếm ưu thế, vì ít có thực vậtcây trườngthường xuânxanh [[Thực vật có hoa|lá rộng]] nào có thể chịu đựng được cái lạnh kháckhắc nghiệt của nhiệt độ âm 30 độ C.
 
Ở những vùng mà có điều dokiện để trở thành dạng rụng lá (ví dụ mùa lạnh hoặc mùa khô), thì việc trở thành dạng trườngthường xuânxanh thường là để thích nghi với mức độ dinh dưỡng thấp. Các cây rụng lá mất đi chất dinh dưỡng mỗi khi chúng rụng lá. Ở những vùng ấm hơn, các chủng loài chẳng hạn như vài loài [[Chi Thông|thông]] và [[Họ Hoàng đàn|bách]] mọc trên đất nghèo chất dinh dưỡng và nền không ổn định. Với Rhododendron, một chi với nhiều loài trườngthường xuânxanh lá rộng, vài chủng loài mọc ở các khu rừng trưởng thành nhưng thường được tìm thấy ở phần đất có độ chua cao, nơi mà dưỡng chất ít có sẵn cho các loài thực vật. Ở các khu rừng [[taiga]] hay [[Taiga|rừng phương Bắc]] (boreal), thời tiết quá lạnh để các vật chất hữu cơ trong đất phân hủy nhanh chóng, vì thế các dưỡng chất trong đất khó có sẵn cho thực vật, do đó phù hợp với các loại trườngthường xuânxanh.
 
Ở các vùng khí hậu ôn đới, các loài trườngthường xuânxanh có thể hỗ trợ nhau sống sót; các bãi lá và kim của cây trườngthường xuânxanh có tỉ lệ cacbon-nito cao hơn so với lá của cây rụng lá, tạo cho đất độ chua hơn với hàm lượng nitơ trong đất thấp hơn. Những điều kiện này thích hợp cho sự phát triển cho trườngcây thường xuânxanh hơn và khó hơn đối với các cây rụng lá. Ngoài ra, nơi sinh sống tạo ra bởi các cây trườngthường xuânxanh có sẵn sẽ giúp các cây trườngthường xuânxanh con dễ sống sót hơn với mùa lạnh hay khô hạn.<ref>Aerts, R. (1995). [http://www.falw.vu.nl/nl/Images/Aerts1995_tcm19-94783.pdf "The advantages of being evergreen"]. ''Trends in Ecology & Evolution'' 10 (10): 402–407.</ref><ref>Matyssek, R. (1986) "Carbon, water and nitrogen relations in evergreen and deciduous conifers". ''Tree Physiology'' 2: 177–187.</ref><ref>Sobrado, M. A. (1991) "Cost-Benefit Relationships in Deciduous and Evergreen Leaves of Tropical Dry Forest Species". ''Functional Ecology'' 5 (5): 608–616.</ref>
 
ThựcCây vậtthường trường xuânxanhthực vậtcây rụng lá có hầu hết các loại bệnh và côn trùng gây hại như nhau, nhưng với sự ôn nhiễm lâu dài, tro bụi và các chất độc trong không khí thì sẽ gây thương tổn cho thựccây vậtthường trường xuânxanh hơn là thực vậtcây rụng lá (ví dụ như loài spruce picea vẫn còn trong các thành phố ở Châu Âu).
 
==Tham khảo==