Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận hồ Masuren lần thứ hai”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, General fixes using AWB |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
{{Thông tin chiến tranh
| conflict = Trận
| partof = [[Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Đông]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]
| image = [[Tập tin:Ostfront 18021915.jpg|300px]]
| caption =
| date = [[7 tháng 2|7]]
| place = [[Đông Phổ]], [[Đế quốc Đức|Đức]] (nay thuộc [[Ba Lan]])
| result = [[quân đội Đức (Đế quốc Đức)|Quân đội Đức]] [[chiến thắng]]
|
|
|
|
|
|
| casualties1 = 16.200 [[tử trận]], bị thương và mất tích<ref name="perret149"> Bryan Perrett, ''Why the Germans Lost: The Rise and Fall of the Black Eagle'', trang 149</ref>
| casualties2 = 56.000 tử trận, bị thương hay mất tích, 100.000 [[tù binh|bị bắt]], nhiều súng ống bị tịch thu<ref name="perret149"/>
| campaignbox =
}}
{{Mặt trận Nga (Chiến tranh thế giới thứ nhất)}}
'''Trận hồ Masuren lần thứ hai''', còn gọi là '''Trận chiến Mùa đông Masuren''', diễn ra từ ngày [[7 tháng 2|7]] đến ngày [[22 tháng 2]] năm [[1915]] trên [[Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Đông]] thời [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]. Kết thúc trận đánh, quân [[Đế quốc Đức|Đức]] thuộc các [[Tập đoàn quân]] số 8 (tướng [[Otto von Below]]) và 10 (tướng [[Hermann von Eichhorn]]) đã đánh tan tác Tập đoàn quân số 10 [[Đế quốc Nga|Nga]] (tướng Faddyei V. Sivers) và chấm dứt hoàn toàn sự hiện diện của [[người Nga]] ở [[Đông Phổ]]. <ref>Nigel Thomas, ''The German Army in World War I (1): 1914-15'', trang 13</ref>
{{Xem thêm|Trận hồ Masuren lần thứ nhất}}
Dưới áp lực của Tổng tư lệnh chiến trường Đông Âu - [[Nguyên soái|Thống chế]] [[Paul von Hindenburg]], cựu Tổng tham mưu trưởng - [[Đại tướng]] [[Helmuth Johannes Ludwig von Moltke|Helmuth von Moltke]] cùng nhiều tướng lĩnh cấp cao khác, [[Hoàng đế Đức|Đức hoàng]] [[Wilhelm II, Hoàng đế Đức|Wilhelm II]] quyết định chuyển sang thế phòng ngự trên [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Tây]] và tập trung tấn công trên Mặt trận phía Đông nhằm loại Nga khỏi vòng chiến. Do vậy, vào [[mùa đông]] [[1914]]-[[1915|15]], Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Đức [[Erich von Falkenhayn]] chuyển một lượng lớn binh lực từ [[Tây Âu]] sang Đông Âu. Để hỗ trợ cuộc tấn công của [[Lịch sử đế quốc Áo-Hung trong thế chiến thứ nhất|quân đội Áo-Hung]] trên [[dãy Karpath]] và phòng ngừa một cuộc tấn công của Nga, Falkenhayn thành lập Tập đoàn quân phía Nam gồm các đơn vị Áo-Đức do tướng [[Alexander von Linsingen]] [[chỉ huy quân sự|chỉ huy]]. Trên mạn bắc, Hindenburg lập Tập đoàn quân số 10 do tướng [[Hermann von Eichhorn]] và bố trí tập đoàn quân này gần [[Tilsit]]. Trong tay Eichhorn có 4 quân đoàn vừa được điều sang từ Tây Âu. <ref name="tuckerpriscilla379">Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts (biên tập), ''World War One'', các trang 379-380.</ref>
{{Xem thêm|Trận Bolimov}}
Tranh cãi đã nảy sinh trong Bộ Tư lệnh Tối cao Đức về việc xác định địa điểm tấn công. Falkenhayn muốn dồn quân chủ lực đánh xuống phía nam trong khi Hindenburg tính thọc lên mạn bắc. Trong khi các chỉ huy Đức còn bàn cãi, phía Nga đã lập ra Tập đoàn quân số 12 dưới quyền [[Pavel Adamovich Plehve|Pavel A. Plahve]] để mở một cuộc tấn công mới vào [[Đông Phổ]]. Họ dự định tiến quân vào ngày [[20 tháng 2]], song [[người Đức]] đã ra tay trước: sau nhiều tranh cãi, Bộ Tư lệnh Tối cao Đức nhất trí phát động hai mũi tiến công:<ref name="tuckerpriscilla379"/>
* Mũi tấn công phía nam do tập đoàn quân Áo-Đức của Linsingen thực thi, tiến qua dãy Karpath về [[Lemberg]] trên mạn đông bắc. Ở bên phải, mũi tấn công này được sự yểm trợ của một cụm tập đoàn quân Áo dưới quyền tướng Karl von Pflanzer-Baltin. Bên trái, Tập đoàn quân số 3 Áo của tướng [[Svetozar Boroević]] sẽ giải vây cho [[pháo đài]] Przemyśl.
* Mũi tấn công phía bắc do Tập đoàn quân số 8 (tướng [[Otto von Below]]) và 10 (tướng von Eichhorn) của Đức thực hiện nhằm vào Tập đoàn quân số 10 Nga (tướng Faddyei V. Sivers) tại vùng hồ Masuren ở [[Đông Phổ]]. Từ các khởi điểm gần Tilsit, Insterburg và Gumbinnen, Tập đoàn quân số 10 sẽ đánh xuống phía nam để thọc sườn phải quân Nga trong khi Tập đoàn quân số 8 từ Lötzen, Ortelsburg và Thorn đánh đến Lyck và Augustów về hướng đông. <ref name="tuckerpriscilla379"/>
== Trận đánh ==
Mũi tấn công phía bắc được Hindenburg phát động vào ngày [[7 tháng 2]]. Trong một cơn bão tuyết dữ dội, Tập đoàn quân số 8 Đức đánh thốc vào sườn trái Tập đoàn quân số 10 Nga. [[8 tháng 2|Hôm sau]], Tập đoàn quân số 10 Đức ồ ạt tấn công sườn phải đối phương. Bất chấp điều kiện thời tiết hết sức khắc nghiệt, cuộc tấn công gọng kìm của quân Đức diễn ra hiệu quả. Đến ngày [[10 tháng 2|10]], quân Đức đã dồn quân cánh phải Nga đến tận Vilkoviski và Wirballen. Giao tranh diễn ra rất khốc liệt trên mọi khu vực, và Tập đoàn quân số 8 Đức đã ép quân cánh trái Nga về Lyck. Sau những thắng lợi vang dội ban đầu, quân Đức - đặc biệt là Tập đoàn quân số 10 - tiếp tục tăng cường tấn công, buộc quân Nga phải tiến hành một cuộc triệt thoái trên toàn tuyến. Theo đó, Tập đoàn quân số 10 Nga rút qua rừng Augustow trong các ngày 10–[[14 tháng 2]], từ bỏ Lyck vào ngày 14. Tướng Eichhorn điều quân đoàn cánh trái của ông đánh vòng rừng Augustow để bao vây quân Nga. Trong một trận đánh kéo dài 3 ngày, Quân đoàn XX Nga đã chiến đấu anh dũng để yểm trợ cho 3 quân đoàn khác chạy khỏi vòng vây. 3 quân đoàn Nga trốn thoát, nhưng, do cạn sạch đạn dược và thực phẩm, Quân đoàn XX Nga phải [[đầu hàng]] vào ngày [[21 tháng 2]].<ref name="spencer233">Spencer C. Tucker (biên tập), ''The European Powers in the First World War: An Encyclopedia'', các trang 233-234.</ref><ref name="perret149"/>
Ngày [[22 tháng 2]], cuộc tấn công của Đức cuối cùng đã dừng bước khi Plahve xua Tập đoàn quân số 12 Nga phản công vào sườn phải của họ. <ref name="spencer233"/><ref name="perret149"/>
== Kết cục ==
Trận hồ Masuren lần thứ hai là một [[thắng lợi chiến thuật]] to lớn của quân đội Đức. Quân Nga đã bị quét sạch khỏi một mặt trận rộng 113 [[km]] và chịu thiệt hại rất nặng nề, với 56.000 người [[chết]], bị thương hay mất tích, cộng thêm chừng 100.000 bị bắt làm [[tù binh]] và một lượng lớn súng ống bị thu giữ. Trong khi đó, quân Đức chỉ tổn thất 16.200 người.<ref name="spencer233"/><ref name="perret149"/> Từ đây cho đến hết cuộc chiến, Đông Phổ không bao giờ bị đe dọa tấn công nữa. <ref>Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, ''World War One'', các trang 373-374.</ref>
Tuy nhiên, trận đánh không đem lại ý nghĩa chiến lược đáng kể cho khối [[Liên minh Trung tâm|Trung tâm]]. Ở phía nam, quân Nga đã chặn được các cuộc tấn công của quân Áo-Hung. Ngày [[22 tháng 2]], Przemysl thất thủ và 150.000 quân Áo-Hung đã bị thêm vào danh sách tù binh của Nga.<ref name="spencer233"/> Thêm vào đó, với nguồn nhân lực dồi dào, Nga dễ dàng bù đắp cho những tổn thất mà họ hứng chịu ở trận Masuren. Mặc dù vậy, cuộc bại trận ở Masuren đã làm sa sút niềm tin của công chúng Nga về một kết thúc có hậu của cuộc chiến. <ref>Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts (biên tập), ''World War One'', trang 759</ref>
▲== Bối cảnh lịch sử ==
== Chú thích ==
{{Tham khảo}}
==
*[http://www.firstworldwar.com/battles/masurian2.htm The Second Battle of the Masurian Lakes, 1915]
* [http://www.history.com/this-day-in-history/winter-battle-of-the-masurian-lakes-begins Feb 7, 1915: Winter Battle of the Masurian Lakes begins]
{{coord missing|Poland}}
{{Các chủ đề|Lịch sử|Đức|Nga|Quân sự}}
|