Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận hồ Masuren lần thứ hai”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, General fixes using AWB
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Thông tin chiến tranh
| conflict = Trận chiến hồ Masuren lần thứ hai
| partof = [[Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Đông]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]
| image = [[Tập tin:Ostfront 18021915.jpg|300px]]
| caption = MặtChiến trận phíatrường [[Đông Âu]], [[717 tháng 2|17]]–[[18 tháng 2]] năm [[1915]].
| date = [[7 tháng 2|7]] – [[22 tháng 2]] năm [[1915]]
| place = [[Đông Phổ]], [[Đế quốc Đức|Đức]] (nay thuộc [[Ba Lan]])
| result = [[quân đội Đức (Đế quốc Đức)|Quân đội Đức]] [[chiến thắng]]
| result = [[Quân đội]] [[Đức]] giành [[thắng lợi chiến thuật]] quan trọng nhưng không có tầm vóc [[chiến lược]] lớn.<ref name="atmarshall160">Samuel Lyman Atwood Marshall, ''World War I'', trang 160</ref><ref name="stucker757758">Spencer Tucker, ''World War I: A - D.'', Tập 1, các trang 757-758.</ref><ref>Spencer Tucker, ''The European Powers in the First World War: An Encyclopedia''</ref><ref name="griffiths5455"/> [[Tập đoàn quân]] số 10 của [[Nga]] gần như là bị tận diệt.<ref name="sondhaus90law"/><ref>Nik Cornish, ''The Russian Army 1914-18'', trang 6</ref>
| combatant1combatant2 = {{flagflagicon|Russian Empire}} [[Đế quốc Nga|size=25px}}Nga]]
| combatant2combatant1 = {{flagflagicon|German Empire}} [[Đế quốc Đức|size=25px}}Đức]]
| commander1commander2 = {{flagicon|ĐếRussian quốc Nga|size=25pxEmpire}} [[Faddyei Vasiliyevich Sivers|F.Faddyei V. Sivers]]<ref name="stucker757758"/> <br /> {{flagicon|ĐếRussian quốc Nga|size=25pxEmpire}} [[Pavel Adamovich Plehve|P.Pavel A. Plahve]] <ref name="sondhaus90law">Lawrence Sondhaus, ''World War One: The Global Revolution'', trang 90</ref>
| commander2commander1 = {{flagicon|ĐếGerman quốc Đức|size=25pxEmpire}} '''[[Paul von Hindenburg]]'''<ref name="stucker757758"/> <br /> {{flagicon|ĐếGerman quốc Đức|size=25pxEmpire}} '''[[Erich Ludendorff]]'''<ref name="gjmeyer22324">G. J. Meyer, ''A world undone: the story of the Great War, 1914 to 1918'', các trang 223-224.</ref> <br /> {{flagicon|ĐếGerman quốc Đức|size=25pxEmpire}} [[Otto von Below]]<ref name="sondhaus90law"/> <br /> {{flagicon|ĐếGerman quốc Đức|size=25pxEmpire}} [[Hermann von Eichhorn]]<ref name="sondhaus90law"/>
| strength1strength2 = {{flagicon|ĐếRussian quốc Nga|size=25pxEmpire}} [[Tập đoàn quân]] số 10 (Đế quốc Nga)|Tập đoàn quân số 10]] <ref name="sondhaus90law"/> <br /> {{flagicon|ĐếRussian quốc Nga|size=25pxEmpire}} Tập đoàn quân số 12 <ref name="sondhaus90law"/>
| strength2strength1 = {{flagicon|ĐếGerman quốc Đức|size=25pxEmpire}} [[Tập đoàn quân số 8 (Đế quốc Đức)|Tập đoàn quân số 8]] <ref name="sondhaus90law"/> <br /> {{flagicon|ĐếGerman quốc Đức|size=25pxEmpire}} [[Tập đoàn quân số 10 (Đế quốc Đức)|Tập đoàn quân số 10]] <ref name="sondhaus90law"/>
| casualties1 = 16.200 [[tử trận]], bị thương và mất tích<ref name="perret149"> Bryan Perrett, ''Why the Germans Lost: The Rise and Fall of the Black Eagle'', trang 149</ref>
| casualties1 = '''Theo Tucker''': 100.000 quân [[tử trận]] và 110.000 quân [[tù binh|bị bắt]], 300 hỏa [[pháo]] bị thu giữ (trong cuốn ''World War I: A - D.'', Tập 1)<ref name="stucker757758"/>; tổng thương vong: 200.000 quân (trong số đó 90.000 quân bị bắt, trong cuốn ''A global chronology of conflict: from the ancient world to the modern Middle East'', Tập 2) <ref name="tuckertra1593">Spencer Tucker, ''A global chronology of conflict: from the ancient world to the modern Middle East'', Tập 2, trang 1593</ref> <br /> '''Theo Meyer''': Khoảng 56.000 quân thương vong, 85 hỏa pháo bị mất <ref name="gjmeyer22324"/> <br /> '''Theo Showalter''': Trong số đó có một [[Tư lệnh]] [[Quân đoàn]] Nga và 55.000 quân bị bắt <ref name="showalter528">William J. Astore, [[Dennis Showalter|Dennis E. Showalter]], ''Hindenburg: Icon of German Militarism'', trang 28</ref>
| casualties2 = 56.000 tử trận, bị thương hay mất tích, 100.000 [[tù binh|bị bắt]], nhiều súng ống bị tịch thu<ref name="perret149"/>
 
| casualties2 = '''Nguồn 1''': Thương vong tương đối thấp <ref name="stucker757758"/><ref name="eggengeberg270"/> <br /> '''Nguồn 2''': 60.000 quân thương vong <ref name="sondhaus90law"/>
| campaignbox =
}}
{{Mặt trận Nga (Chiến tranh thế giới thứ nhất)}}
'''Trận hồ Masuren lần thứ hai''', còn gọi là '''Trận chiến Mùa đông Masuren''', diễn ra từ ngày [[7 tháng 2|7]] đến ngày [[22 tháng 2]] năm [[1915]] trên [[Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Đông]] thời [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]. Kết thúc trận đánh, quân [[Đế quốc Đức|Đức]] thuộc các [[Tập đoàn quân]] số 8 (tướng [[Otto von Below]]) và 10 (tướng [[Hermann von Eichhorn]]) đã đánh tan tác Tập đoàn quân số 10 [[Đế quốc Nga|Nga]] (tướng Faddyei V. Sivers) và chấm dứt hoàn toàn sự hiện diện của [[người Nga]] ở [[Đông Phổ]]. <ref>Nigel Thomas, ''The German Army in World War I (1): 1914-15'', trang 13</ref>
'''Trận hồ Masuren lần thứ hai''', đôi khi còn gọi là '''Trận đánh [[Mùa đông]] tại Masuren''', là một trận đánh lớn trên [[Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Đông]] của cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]],<ref name="eggengeberg270">David Eggenberger, ''An Encyclopedia of Battles: Accounts of Over 1,560 Battles from 1479 B.C. to the Present'', trang 270</ref><ref>J. M. de Beaufort, ''Behind the German veil: a record of a journalistic war pilgrimage'', trang 218</ref> diễn ra từ ngày [[7 tháng 2|7]] cho đến ngày [[22 tháng 2]] năm [[1915]], giữa [[Quân đội]] [[Đế quốc Đức]] và [[Đế quốc Nga]]<ref name="sondhaus90law"/>. Chiến dịch tấn công này đã được vị Tổng [[tư lệnh]] của Mặt trận phía Đông (''Oberost'') là [[Nguyên soái|Thống chế]] [[Paul von Hindenburg]] của Đức và Tham mưu trưởng của ông là [[Erich Ludendorff]] phát động về hướng Bắc nhằm vào quân Nga, để loại bỏ hoàn toàn quân Nga ra khỏi vòng chiến.<ref name="eggengeberg270"/><ref name="tuckerroberts66">Spencer C. Tucker, Priscilla Mary Roberts, ''World War I: A Student Encyclopedia'', các trang 616-618.</ref> Chiến dịch tấn công này đã thất bại trong mục tiêu xóa sổ Quân đội Nga<ref name="stucker757758"/> nhưng Quân đội Đức giành [[thắng lợi chiến thuật]] lớn.<ref name="atmarshall160"/> Sau chiến bại này, người Nga bị đánh đuổi hoàn toàn ra khỏi vùng [[Đông Phổ]] và không bao giờ tấn công đe dọa vùng này cũng như nước Đức nữa, đồng thời cũng không thể hồi phục.<ref>Spencer Tucker, ''World War I: A - D.'', Tập 1, trang 375</ref><ref name="mooreheadtr97"/><ref>Raffael Scheck, ''Germany, 1871-1945: A Concise History'', trang 90</ref><ref>Martin Polley, ''A-Z of Modern Europe Since 1789'', trang 147</ref><ref>Joseph Canning,Hartmut Lehmann, J. M. Winter, ''Power, Violence and Mass Death in Pre-Modern and Modern Times'', trang 192</ref> Quân đội [[Đức]] đã tiến hành chiến dịch này trong điều kiện bão tuyết, song với những mục tiêu thích hợp họ đã giành được lợi thế và gây thiệt hại nặng nề cho người [[Nga]]<ref name="griffiths5455"/><ref name="almanactra48">David R. Woodward, ''World War I Almanac'', các trang 48-49.</ref> (trong số đó có rất nhiều [[loài người|người]] bị bắt làm [[tù binh]]<ref name="tuckertra1593"/><ref name="showalter528"/><ref>Paul K. Davis, ''Encyclopedia of invasions and conquests from ancient times to present'', trang 395</ref><ref name="frenebeker19">Frederik Nebeker, ''Dawn of the Electronic Age: Electrical Technologies in the Shaping of the Modern World, 1914 To 1945'', trang 19</ref>), trong khi bản thân họ chỉ chịu tổn thất tương đối nhẹ nhàng.<ref name="stucker757758"/><ref name="eggengeberg270"/>
 
== Bối cảnh lịch sử ==
{{Xem thêm|Trận hồ Masuren lần thứ nhất}}
Dưới áp lực của Tổng tư lệnh chiến trường Đông Âu - [[Nguyên soái|Thống chế]] [[Paul von Hindenburg]], cựu Tổng tham mưu trưởng - [[Đại tướng]] [[Helmuth Johannes Ludwig von Moltke|Helmuth von Moltke]] cùng nhiều tướng lĩnh cấp cao khác, [[Hoàng đế Đức|Đức hoàng]] [[Wilhelm II, Hoàng đế Đức|Wilhelm II]] quyết định chuyển sang thế phòng ngự trên [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Tây]] và tập trung tấn công trên Mặt trận phía Đông nhằm loại Nga khỏi vòng chiến. Do vậy, vào [[mùa đông]] [[1914]]-[[1915|15]], Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Đức [[Erich von Falkenhayn]] chuyển một lượng lớn binh lực từ [[Tây Âu]] sang Đông Âu. Để hỗ trợ cuộc tấn công của [[Lịch sử đế quốc Áo-Hung trong thế chiến thứ nhất|quân đội Áo-Hung]] trên [[dãy Karpath]] và phòng ngừa một cuộc tấn công của Nga, Falkenhayn thành lập Tập đoàn quân phía Nam gồm các đơn vị Áo-Đức do tướng [[Alexander von Linsingen]] [[chỉ huy quân sự|chỉ huy]]. Trên mạn bắc, Hindenburg lập Tập đoàn quân số 10 do tướng [[Hermann von Eichhorn]] và bố trí tập đoàn quân này gần [[Tilsit]]. Trong tay Eichhorn có 4 quân đoàn vừa được điều sang từ Tây Âu. <ref name="tuckerpriscilla379">Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts (biên tập), ''World War One'', các trang 379-380.</ref>
 
{{Xem thêm|Trận Bolimov}}
Tranh cãi đã nảy sinh trong Bộ Tư lệnh Tối cao Đức về việc xác định địa điểm tấn công. Falkenhayn muốn dồn quân chủ lực đánh xuống phía nam trong khi Hindenburg tính thọc lên mạn bắc. Trong khi các chỉ huy Đức còn bàn cãi, phía Nga đã lập ra Tập đoàn quân số 12 dưới quyền [[Pavel Adamovich Plehve|Pavel A. Plahve]] để mở một cuộc tấn công mới vào [[Đông Phổ]]. Họ dự định tiến quân vào ngày [[20 tháng 2]], song [[người Đức]] đã ra tay trước: sau nhiều tranh cãi, Bộ Tư lệnh Tối cao Đức nhất trí phát động hai mũi tiến công:<ref name="tuckerpriscilla379"/>
* Mũi tấn công phía nam do tập đoàn quân Áo-Đức của Linsingen thực thi, tiến qua dãy Karpath về [[Lemberg]] trên mạn đông bắc. Ở bên phải, mũi tấn công này được sự yểm trợ của một cụm tập đoàn quân Áo dưới quyền tướng Karl von Pflanzer-Baltin. Bên trái, Tập đoàn quân số 3 Áo của tướng [[Svetozar Boroević]] sẽ giải vây cho [[pháo đài]] Przemyśl.
* Mũi tấn công phía bắc do Tập đoàn quân số 8 (tướng [[Otto von Below]]) và 10 (tướng von Eichhorn) của Đức thực hiện nhằm vào Tập đoàn quân số 10 Nga (tướng Faddyei V. Sivers) tại vùng hồ Masuren ở [[Đông Phổ]]. Từ các khởi điểm gần Tilsit, Insterburg và Gumbinnen, Tập đoàn quân số 10 sẽ đánh xuống phía nam để thọc sườn phải quân Nga trong khi Tập đoàn quân số 8 từ Lötzen, Ortelsburg và Thorn đánh đến Lyck và Augustów về hướng đông. <ref name="tuckerpriscilla379"/>
 
== Trận đánh ==
Mũi tấn công phía bắc được Hindenburg phát động vào ngày [[7 tháng 2]]. Trong một cơn bão tuyết dữ dội, Tập đoàn quân số 8 Đức đánh thốc vào sườn trái Tập đoàn quân số 10 Nga. [[8 tháng 2|Hôm sau]], Tập đoàn quân số 10 Đức ồ ạt tấn công sườn phải đối phương. Bất chấp điều kiện thời tiết hết sức khắc nghiệt, cuộc tấn công gọng kìm của quân Đức diễn ra hiệu quả. Đến ngày [[10 tháng 2|10]], quân Đức đã dồn quân cánh phải Nga đến tận Vilkoviski và Wirballen. Giao tranh diễn ra rất khốc liệt trên mọi khu vực, và Tập đoàn quân số 8 Đức đã ép quân cánh trái Nga về Lyck. Sau những thắng lợi vang dội ban đầu, quân Đức - đặc biệt là Tập đoàn quân số 10 - tiếp tục tăng cường tấn công, buộc quân Nga phải tiến hành một cuộc triệt thoái trên toàn tuyến. Theo đó, Tập đoàn quân số 10 Nga rút qua rừng Augustow trong các ngày 10&ndash;[[14 tháng 2]], từ bỏ Lyck vào ngày 14. Tướng Eichhorn điều quân đoàn cánh trái của ông đánh vòng rừng Augustow để bao vây quân Nga. Trong một trận đánh kéo dài 3 ngày, Quân đoàn XX Nga đã chiến đấu anh dũng để yểm trợ cho 3 quân đoàn khác chạy khỏi vòng vây. 3 quân đoàn Nga trốn thoát, nhưng, do cạn sạch đạn dược và thực phẩm, Quân đoàn XX Nga phải [[đầu hàng]] vào ngày [[21 tháng 2]].<ref name="spencer233">Spencer C. Tucker (biên tập), ''The European Powers in the First World War: An Encyclopedia'', các trang 233-234.</ref><ref name="perret149"/>
 
Ngày [[22 tháng 2]], cuộc tấn công của Đức cuối cùng đã dừng bước khi Plahve xua Tập đoàn quân số 12 Nga phản công vào sườn phải của họ. <ref name="spencer233"/><ref name="perret149"/>
Kế hoạch của người Đức giao nhiệm vụ tiến công quân Nga cho [[Tập đoàn quân]] số 8 và Tập đoàn quân số 10 của Đức. Người chỉ huy Tập đoàn quân số 10 của Nga không tin rằng quân Đức có thể tấn công trong thời tiết khó khăn, do đó quân Nga bị choáng ngợp<ref name="stucker757758"/> khi Tập đoàn quân số 8 của Đức đánh vào sườn trái của Tập đoàn quân số 10 của Nga<ref name="tuckerroberts66"/> và giành thắng lợi.<ref name="griffiths5455">William R. Griffiths, ''The Great War'', các trang 54-55.</ref> Ngày hôm sau, Tập đoàn quân số 10 của Đức công kích đội hữu quân Nga và buộc quân Nga phải tháo lui trong một cuộc giao tranh ác liệt. Vào ngày [[11 tháng 2]] năm 1915, Quân đội Đức tiến đến Stallupönen<ref name="tuckerroberts66"/>, và vào ngày [[14 tháng 2]] năm ấy, họ tiến chiếm [[Lyck]]<ref name="stucker757758"/>. Quân Nga phải bỏ lại cả xe ngựa của mình.<ref name="griffiths5455"/> Cho đến ngày [[21 tháng 2]] năm 1915, các đơn vị dẫn đầu của hai Tập đoàn quân số 8 và số 10 của Đức hội quân tại [[Lipsk]], về hướng Nam rừng Augustów để hợp vây tàn binh Nga.<ref name="stucker757758"/> Tại khu rừng này, [[Quân đoàn]] XXI của Nga phải đầu hàng, nhưng cuộc kháng trả của họ đã tạo điều kiện cho ba Quân đoàn khác chạy thoát.<ref name="tuckerroberts66"/> Tuy thế nhưng đây vẫn được xem là thắng lợi đỉnh cao của Quân đội Đức trong trận hồ Masuren lần hai và họ còn lấy được nhiều khẩu đại bác tại rừng này.<ref name="atmarshall160"/> Vào ngày [[22 tháng 2]] năm 1915, Tập đoàn quân số 12 của Nga công kích đội hữu quân Đức, ngăn chặn bước tiến thêm nữa về phía Đông của người Đức.<ref name="stucker757758"/> Nhìn chung, quân Đức đã gần như là triệu tiêu Tập đoàn quân số 10 của quân Nga,<ref name="showalter528"/> giành [[chiến thắng]] khá lớn trong trận chiến này<ref>Richard Cooper Hall, ''Consumed by War: European Conflict in the 20th Century'', trang 39</ref> và đánh bật quân Nga đến 70 [[dặm Anh]].<ref name="tuckertra1593"/><ref name="johnmorrow85">John Howard Morrow, ''The Great War: An Imperial History'', trang 85</ref> Quân đội của Hindenburg vốn đã kiệt quệ<ref name="atmarshall160"/> và họ tiến hành phòng ngự sau khi đã giữ được chỗ đứng trên lãnh thổ Đế quốc Nga chiến thắng quan trọng này.<ref name="gjmeyer22324"/><ref name="johnmorrow85"/><ref>Vejas G. Liulevicius, ''War Land on the Eastern Front: Culture, National Identity and German Occupation in World War I'', trang 17</ref>
 
== Kết cục ==
Với chiến thắng của Quân đội Đức cũng như tình hình bế tắc theo sau trận hồ Masure lần thứ hai<ref>R. L. DiNardo, ''Breakthrough: The Gorlice-Tarnów Campaign, 1915'', trang 108</ref> cả [[nước Nga Sa hoàng]] lẫn nước Đức dưới binh quyền của [[Erich von Falkenhayn]] đều được tồn tại lâu hơn.<ref name="atmarshall160"/> Ở phía Nam khi ấy, Chiến dịch tấn công của Quân đội [[Đế quốc Áo-Hung|Áo-Hung]] nhằm vào Quân đội Nga đã không mang lại thành quả gì<ref name="stucker757758"/>.<ref name="johnmorrow85"/> Chiến dịch Masure cũng được xem là cố gắng cuối cùng của quân Đức nhằm gián tiếp hỗ trợ quân [[Áo]]-Hung bằng những đòn tấn công ở phía Bắc.<ref name="tuckerroberts66"/> Tình trạng bế tắc đã không thể làm lu mờ thanh danh của Hindenburg và Ludendorff<ref name="sondhaus90law"/>, chưa kể là [[người Đức]] càng thêm tôn kính Hindenburg khi được tin về chiến thắng của quân đội ông trong khu rừng Augustów, mà bản thân ông xem là một thảm họa "[[Trận Sedan|Sedan]]" của Tập đoàn quân số 10 của Nga.<ref name="atmarshall160"/><ref>Paul Von Hindenberg, Charles Messenger, ''The Great War'', trang 85</ref> Là thất bại thứ ba của quân Nga trước quân Đức đồng thời là một trong những thảm kịch của nước Nga trong cuộc chiến,<ref name="mooreheadtr97">Alan Moorehead, ''The Russian revolution'', trang 97</ref><ref>D. C. B. Lieven, ''The Cambridge History of Russia: Imperial Russia, 1689-1917'', Tập 2 trang 553</ref> cuộc bại trận này đã tiêu diệt Tập đoàn quân số 10 của Nga với tư cách là một lực lượng chiến đấu hữu hiệu.<ref name="almanactra48"/><ref>[[Trevor Nevitt Dupuy]], ''The military lives of Hindenburg and Ludendorff of Imperial Germany'', trang 70</ref> Ngoài ra, chiến bại to lớn<ref name="frenebeker19"/> này đã khiến cho dư luận Nga đặt nghi vấn với kết thúc tốt đẹp của cuộc [[chiến tranh]].<ref name="stucker757758"/>
Trận hồ Masuren lần thứ hai là một [[thắng lợi chiến thuật]] to lớn của quân đội Đức. Quân Nga đã bị quét sạch khỏi một mặt trận rộng 113 [[km]] và chịu thiệt hại rất nặng nề, với 56.000 người [[chết]], bị thương hay mất tích, cộng thêm chừng 100.000 bị bắt làm [[tù binh]] và một lượng lớn súng ống bị thu giữ. Trong khi đó, quân Đức chỉ tổn thất 16.200 người.<ref name="spencer233"/><ref name="perret149"/> Từ đây cho đến hết cuộc chiến, Đông Phổ không bao giờ bị đe dọa tấn công nữa. <ref>Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, ''World War One'', các trang 373-374.</ref>
 
Tuy nhiên, trận đánh không đem lại ý nghĩa chiến lược đáng kể cho khối [[Liên minh Trung tâm|Trung tâm]]. Ở phía nam, quân Nga đã chặn được các cuộc tấn công của quân Áo-Hung. Ngày [[22 tháng 2]], Przemysl thất thủ và 150.000 quân Áo-Hung đã bị thêm vào danh sách tù binh của Nga.<ref name="spencer233"/> Thêm vào đó, với nguồn nhân lực dồi dào, Nga dễ dàng bù đắp cho những tổn thất mà họ hứng chịu ở trận Masuren. Mặc dù vậy, cuộc bại trận ở Masuren đã làm sa sút niềm tin của công chúng Nga về một kết thúc có hậu của cuộc chiến. <ref>Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts (biên tập), ''World War One'', trang 759</ref>
== Bối cảnh lịch sử ==
'''Trận hồ Masuren lần thứ hai''' là một phần của kế hoạch của người chỉ huy phe [[Liên minh Trung tâm|Liên minh Trung Tâm]] trên [[Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Đông]] là [[Nguyên soái|Thống chế]] [[Paul von Hindenburg]] nhằm phát động một cuộc tiến công quyết định và đồng thời của quân Liên minh [[Đế quốc Đức|Đức]] - [[Đế quốc Áo-Hung|Áo]] trên khắp Mặt trận phía Đông để loại bỏ nước Nga ra khỏi vòng chiến.<ref name="stucker757758"/> Mặc dù Tổng tham mưu trưởng Quân đội Đức là [[Erich von Falkenhayn]] tỏ ra dè đặt trong việc chuyển quân từ [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Tây]] sang Mặt trận phía Đông, ông đã phải chấp thuận kế hoạch của Hindenburg.<ref name="nicolabarber">Nicola Barber, ''Living Through World War I''</ref>
 
== Chú thích ==
{{Tham khảo}}
== ĐọcLiên thêmkết ngoài ==
*Tucker, Spencer C. ''The Great War: 1914-18'' (1998)
*[http://www.firstworldwar.com/battles/masurian2.htm The Second Battle of the Masurian Lakes, 1915]
* [http://www.history.com/this-day-in-history/winter-battle-of-the-masurian-lakes-begins Feb 7, 1915: Winter Battle of the Masurian Lakes begins]
 
{{Sơ khai}}
{{coord missing|Poland}}
{{Các chủ đề|Lịch sử|Đức|Nga|Quân sự}}